Chuyển đến nội dung chính

Tản mạn về những ngày Tháng 3…

(Dân trí) - Nếu thấy được cái bất hạnh của những học sinh thời Pháp thuộc phải học thuộc câu “Tổ tiên ta là người Gôloa!”, thì mới tháy đầy đủ hạnh phúc hôm nay được khảng định:Tổ tiên ta là các vua Hùng !
Từ sau Cách mạng Tháng Tám, mọi người Việt Nam ta đều có thể ngẩng cao đầu nói như vậy. Và còn nhắc nhở nhau:’Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3!”
Về thời đại Hùng Vương cho đến nay, vẫn còn nhiều điều mờ tỏ. Nhưng có lẽ càng chìm trong lãng đãng khói sương của huyền thoại thì càng linh thiêng bởi người Việt không thờ những thứ quá rõ ràng? Tồn tại đích xác từ bao giờ chưa ai biết cụ thể nhưng những ảnh hưởng của  thời Hùng Vương đến văn hóa Việt, đến nhà nước và pháp luật còn đến tận  bây giờ.

Đạo ông bà  và nhà nước thân dân

Đường lên Nghĩa Lĩnh - Đền Hùng
Có một học giả Phương Tây đến nước ta thấy gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên đã kết luận rằng đây là quốc giáo của Việt Nam và nói người Việt nam theo “đạo ông bà”. Nếu hàng năm người Hồi giáo trên khắp thế giới lũ lượt hành hương về thánh địa Mếchca, Người Thiên chúa giáo luôn coi Giêruxalem là vùng đất thánh, nguời Ấn Độ chen chúc nhau tìm về và đắm mình trong dòng nước Sông Hằng linh thiêng thì người Việt ở khắp các phương trời cứ mỗi độ tháng Ba về lại cùng thành kính hướng về ngày Giỗ Tổ. Trong khi nhiều dân tộc trên thế giới còn đang loay hoay đi tìm câu hỏi ta là ai, ta từ đâu tới thì người Việt có nguồn cội để mà tự hào có tổ tiên để mà thờ cúng, có cội rễ để bám víu, cùng được gọi nhau bằng hai chữ “đồng bào” thân thuộc và tìm thấy ở đó sức mạnh đoàn kết trong bất cứ thời điểm nào. Trong ngày giỗ tổ, nếu nhắc đến hiềm khích, bất đồng kể cả thù hận
Ý kiến của bạn về vấn đề này xin gửi đến Diễn đàn Dân trí  qua địa chỉ e-mail:thaolam@dantri.com.vn
nếu có giữa những người anh em đều là điều tối kỵ, lạc lõng và đó là cơ hội để tiếng nói hòa giải yêu thương lên tiếng.
Về với Đất Tổ- vùng đất của rừng cọ đồi chè để sống lại với huyền thoại xa xưa nơi có một ngày Lạc Long Quân tạm biệt Âu Cơ bằng cuộc chia  ly tuyệt đẹp và bi tráng nhất trong huyền sử dân tộc để một kẻ lên rừng, người xuống biển. Ly hôn bởi “ta là giốngrồng, nàng là giốngtiên, thủy thổ, phong tục khôn hợp” bởi duyên vợ chồng chỉ ngắn ngủi vậy thôi nhưng Lạc Long Quân vẫn ngoái lại mà dặn dò Âu Cơ: “khi nào có sự thì nhớ gọi nhau”. Cũng từ đó, một dân tộc Việt đã khai sinh, một quốc gia Văn Lang đã được hình thành. Quốc gia ấy có nhà nước, pháp luật và kỷ cương, có những ông vua hiền ngày ngày dạy dân chăn tằm, dệt lụa và trồng lúa nước, tạo nên một nền văn minh rực rỡ với tên gọi nền văn minh sông Hồng mà đến nay các nhà khảo cổ học vẫn còn đang dày công nghiên cứu, kiếm tìm.
Từ ý thức là con của cha rồng mẹ tiên và con cháu của dòng họ Hùng làm cho mức độ chuyên chế của nhà vua ở thời kỳ đầu không cao. Vua quan là cha mẹ gần gũi và thương yêu dân chúng như con, cái; tư tưởng ấy từ thời Hùng Vương có lúc bị khuất lấp có lúc trỗi dậy nó làm nên sự khác biệt giữa ông vua Việt Nam và nhiều ông vua khác trên thế giới này. Ở cuối bài Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã trăn trở mà hạ bút viết rằng: Trẫm nghĩ vậy, các khanh tính sao (chứ không phải là trẫm quyết rồi các khanh tính sao), dân chủ, thân dân là ở chỗ một ông vua phong kiến quyền lực chỉ thua có trời nhưng trước một vấn đề hệ trọng như dời đô không hề độc đoán.
 Nhà nước thân dân, xã hội là một gia đình lớn mà ông vua là người  trưởng gia; khi chống lại vua không chỉ là vi phạm pháp luật mà còn vi phạm đạo đức. Nhiều việc phức tạp hay tế nhị cấp dưới đều báo cáo và trông chờ thủ tướng cho ý kiến chỉ đạo chứ không hành xử theo chức năng, thẩm quyền pháp luật đã quy định. Mọi việc “đã có” hay “cứ để” nhà nước lo đã trở thành tâm lý của của nhiều người. Điều đó hay hoặc dở  đây có lẽ cũng cần giải mã.

Nguyên nhân của cát cứ và bất tuân pháp luật

Tiến sỹ Nguyễn Minh Tuấn Khoa luật ĐHQG Hà Nội cho  rằng nhà nước Văn Lang là một  cái làng nhiều hơn là một nhà nước. Còn giáo sư Trần Quốc Vượng thì khẳng định rằng nghìn năm Bắc thuộc chúng ta mất nước chứ không mất làng.  Người Việt đã quay về cố thủ trong các lũy tre làng. Làng Việt đã có công bảo vệ hồn Việt. Nhà nước thân dân thì làng và nước  hòa vào làm một. Nhưng nếu lợi ích của làng và nước xa nhau nó sẽ hình thành nên một phản xạ là dân Việt rút vào làng cố thủ. Đât nước này đã có thời 12 sứ quân khi chính quyền Trung ương không đủ quyền lực để can thiệp và không đủ uy tín để thuyết phục làng. Cục bộ địa phương, chia cắt trong phát triển kinh tế vùng miền, độc quyền trong kinh tế có thể lý giải được bằng nhiều cách trong đó có cách này: Cát cứ luôn là một nguy cơ tiềm ẩn trong xã hội trong tâm lý người Việt.
Làng Việt tồn tại được nhờ nó tồn tại hàng nghìn năm trên tất cả các cơ sở vững chắc. Có cơ sở kinh tế là ruộng đất làng xã. Có cương vực lãnh thổ giới hạn bởi lũy tre làng. Có “pháp luật” là các tục lệ và tập quan (lệ làng). Có cơ sở chính trị là bộ máy do chính cư dân trong làng bầu nên. Nhằm xây dựng một nhà nước Trung ương tập quyền, Lê Thánh Tông đã có cuộc cải cách vĩ đại. Một trong những nội dung của cuộc cải cách ấy là tập trung “công phá” vào các cơ sở kinh tế- chính trị - pháp luật làng xã như hạn chế ruộng đất làng, kiểm duyệt hương ước, pháp lý hóa tiêu chuẩn người đứng đầu hàng xã nhằm hạn chế quyền lực của đám làng xã “cứng đầu cứng cổ ”…
Những người đứng đầu làng xã  ngày xưa bao giờ cũng do dân chúng bầu trực tiếp từ những người trong làng chứ không do cấp trên bổ nhiệm hoặc đưa từ nơi khác về. Từ đây cho thấy Đề án để dân bầu trực tiếp chủ tịch xã hay đưa trí thức trẻ về làm phó chủ tịch xã cũng có lẽ cần tính đến cơ sở lịch sử này.
Người ta hay than phiến về thói quen bất tuân pháp luật của người Việt mình. Có người lý giải rằng: Đó là do dân ta phải sống quá lâu trong chế độ đô hộ, phong kiến, thực dân.
Pháp luật theo họ là công cụ của kẻ thống trị, của ngoại bang chỉ để trấn áp, trừng trị và phục vụ thiểu số người. Bất tuân pháp luật là sự phản ứng của người Việt trước kiểu pháp luật ấy. Chính vì vậy họ không tìm thấy trong pháp luật trước đây những giá trị phản ánh lợi ích của mình nên đã hình thành nên một phản xạ luôn đặt pháp luật trong tư thế đối lập.
Pháp luật là của Nhà nước, Nhà nước xưa kia không phải của dân. Còn người dân thì quay về cố thủ sau luỹ tre làng và bằng lòng với những lệ làng, hương ước tuy giản dị đơn sơ và có phần hoang dã nhưng lại phản ánh được ý chí của họ. Phải chăng cái tâm lý coi pháp luật luôn là giá trị đối lập với mình còn rơi rớt đến bây giờ?
TS. Đinh Thế Hưng
LTS Dân trí-Nhân dịp Giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 (âm lịch), tác giả bài viết trên đây có những lời bàn về những ảnh hưởng lâu dài, bền vững cả về mặt tâm linh cũng như truyền thống văn hóa từ thời đại Hùng Vương – thời kỳ lịch sử chưa thành văn- cho đến các triều đại phong kiến sau này, như giai đoạn Vua Lý Công Uẩn rời đô về Thăng Long vẫn giữ truyền thống của “nhà nước thân dân”, thể hiện cách ứng xử dân chủ của một ông Vua ngay trong chiếu dời đô…
Ngày nay, chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân cũng như xây dựng nông thôn mới không thể không tính đến những đặc điểm của truyền thống lịch sử từ xa xưa để lại, biết kế thừa những tinh hoa mà cha ông đã dày công vun đắp như truyền thống dân chủ, đại đoàn kết dân tộc, cũng như khắc phục những mặt hạn chế của tâm lý tiểu nông hay cát cứ vùng miền, làng xã…”luật vua thua lệ làng”!

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...