Chuyển đến nội dung chính

Kỳ tích hạt gạo đồng bằng


Trần Hiệp Thuỷ

"Những ngày đầu năm 2013, đi dọc dòng kênh xáng, tôi suy nghĩ miên man về con đường lúa gạo miền Hậu Giang và kỳ tích hạt gạo đồng bằng.
Dòng Xà No
Kinh xáng Xà No nối liền Cần Thơ – Vị Thanh qua Kiên Giang đã trải qua lịch sử hình thành 110 năm, từng được chính quyền thực dân Pháp xác định là “quả đấm chiến lược”, mở ra triển vọng mới trong công cuộc hình thành vựa lúa miền Hậu Giang.
Qua nhiều biến cố thăng trầm lịch sử, dòng Xà No đảm nhiệm chức năng của con đường lúa gạo Miền Hậu Giang, khởi phát những giá trị của văn minh kinh xáng, hình thành các cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và chợ dọc bở kinh … Ngày nay, bờ kè kinh xáng Xà No dài 25 km như một nét vẽ đẹp chạy qua các huyện Châu Thành A, Vị Thủy, TP. Vị Thanh, tạo dáng độc đáo cho đô thị trung tâm tiểu vùng Tây Sông Hậu, là một trong những công trình bờ kè sông đẹp nhất Việt Nam, trở thành một mẩu mực xây dựng công trình giao thông, chống sạt lở, kết hợp tạo cảnh quan, phát triển đô thị.
Những ngày đầu năm 2013, đi dọc dòng kênh xáng, tôi suy nghĩ miên man về con đường lúa gạo miền Hậu Giang và kỳ tích hạt gạo đồng bằng. Nếu như “Vựa lúa gạo”, “Chén cơm châu Á” Nam Kỳ đã xuất khẩu hơn 1,1 tấn gạo vào năm 1910, trong 15 năm, đến năm 1925 tăng lên 1,370 triệu tấn; thì năm 2012, vùng ĐBSCL đã đạt con số kỷ lục chưa từng có: 8 triệu tấn gạo xuất khẩu với sản lượng lúa đạt hơn 24,3 triệu tấn, tăng 2 triệu tấn so năm 2011.   
Đột phá về năng suất, sản lượng và xuất khẩu
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra 2 Chương trình lớn thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là “Chương trình lương thực” và “Chương trình xuất khẩu” mà kết quả của nó đều ghi đậm sự đóng góp to lớn của ngành sản xuất lúa gạo ĐBSCL. Từ một quốc gia nhiều năm thiếu lương thực, chỉ sau 3 năm đổi mới, năm 1989, nước ta đã đảm bảo được an ninh lương thực trong nước và bắt đầu trở lại tham gia thị trường gạo quốc tế để giữ vững vị trí cường quốc xuất khẩu gạo trên thế giới, chiếm hơn 20% lượng gạo thương mại toàn cầu. Tổng sản lượng lúa của cả nước tăng từ 19,2 triệu tấn năm 1990 lên 41,6 triệu tấn năm 2010 và 43,6 triệu tấn trong năm 2012. Đất nước đã chuyển từ thiếu gạo trong thập kỷ 80 sang dư thừa lần lượt 3 triệu tấn, 5 triệu tấn và 8 triệu tấn gạo vào các năm 1990, 2000 và 2012.
Trong kỳ tích đó, vùng đất Chín Rồng nổi lên, giữ vai trò quyết định. Chỉ sau 2 thập niên, sản lượng lúa vùng châu thổ này đã được nhân lên hơn gấp đôi, từ 9,48 triệu năm 1990 lên 21,6 triệu tấn năm 2010, rồi hơn 24,1 triệu tấn năm 2012, chiếm hơn 55% sản lượng và hơn 92% kim ngạch xuất khẩu gạo hàng năm của cả nước; năng suất tăng từ 3,3 tấn/ha năm 1990 lên khoảng 5,58 tấn/ha hiện nay, riêng vụ đông xuân, nhiều nơi trong vùng đạt 7 tấn/ha. “Câu chuyện thành công” của ngành lúa gạo Việt Nam mà “Vựa lúa” Miền Tây là chỗ dựa đã góp phần rất quan trọng trong thế chuyển từ một quốc gia thu nhập thấp sang một quốc gia có thu nhập trung bình của nước ta hiện nay.
Từ gạo ăn đến gạo chợ
Thành tựu của công nghệ sinh học sản xuất giống lúa mới thích ứng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; trình độ ứng dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong canh tác của nông dân được nâng lên với hiệu quả đáng kể của “4 đúng”, “3 giảm, 3 tăng”, “5 giảm, 1 phải”. Cơ giới hóa trong sản xuất, thu hoạch – sau thu hoạch, tồn trữ, chế biến, tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa như những thành công bước đầu của “Cánh đồng mẫu lớn” và nhiều chính sách tác động của Nhà nước, kết quả đầu tư hạ tầng thủy lợi, kho chứa, cộng với sự nỗ lực và sức sáng tạo của nông dân ... đã nâng cao vị thế hạt gạo đồng bằng, đưa nó đi nhanh hơn trên con đường ngày càng tiệm cận với thị trường, làm thay đổi đáng kể phương thức sản xuất lúa, nâng cao giá trị hạt gạo ĐBSCL từ “để ăn” (an ninh lương thực) là chủ yếu sang “để bán” (xuất khẩu và tiêu thụ nội địa); từ tư duy sản xuất được nhiều lúa gạo của người nông dân sang làm ra nhiều giá trị-lợi nhuận từ lúa gạo của những “doanh nhân nông nghiệp”.
Khi sản xuất gạo liên tục tăng, vượt xa nhu cầu tiêu dùng trong nước, phần lớn sản lượng gia tăng trong 2 thập kỷ qua đã được xuất ra nước ngoài theo hai kênh: thương mại và giao dịch chính phủ (G2G). Trong đó, khoảng 1/3 sản lượng quốc gia và 70% sản lượng của ĐBSCL đã được xuất khẩu. Ở ĐBSCL đã hình thành những vùng nguyên liệu chuyên canh lúa cho xuất khẩu mà một số nghiên cứu gọi là “vành đai lúa” hay “Vùng lõi” sản xuất lúa hàng hóa, tập trung ở khoảng 30 huyện thuộc 3 tỉnh trọng điểm là An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp và một phần ở các tỉnh còn lại. Theo nghiên cứu của Nhóm chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới nêu trên, thì chỉ khoảng 20% người trồng lúa ở ĐBSCL đã tạo ra 63%  thặng dư sản lượng trên thị trường. Trong những năm đầu thập kỷ 2000, khoảng 40% sản lượng lúa của ĐBSCL đã được xuất khẩu. Hai năm gần đây, tỷ trọng này chiếm khoảng 65-70%. Đây quả là một thay đổi mạnh mẽ từ xu hướng “gạo ăn” sang “gạo chợ”. Xu hướng này cần được sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa, sự tiếp cận đa ngành, mà trước tiên là hiện đại hóa ngành sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL gắn với thực hiện Tam Nông và xây dựng nông thôn mới.
Từ Con đường lúa gạo đến làm giàu
Lúa gạo, trái cây, thủy sản đồng bằng tuy đã làm nên kỳ tích, nhưng vẫn mang sức ì “4 không” (không đúng chất, không đủ lượng, không đúng thời điểm và không đạt giá cao). Nông dân cần được giải phóng bằng kiến thức của nhà kinh doanh. Họ phải được đào tạo nghề nông nghiệp, tập trung vào việc nâng cao giá trị sản xuất các ngành hàng chủ lực của vùng; đào tạo nghề phi nông nghiệp để tác động tích cực trở lại cho nông nghiệp, nông thôn. Đó là cách thức giúp nông dân không chỉ đứng vững trên đồng ruộng mà còn có thể làm giàu từ nông nghiệp, nông thôn.
Quá trình doanh nhân hóa nông dân phải diễn ra trong không gian nông thôn đồng bằng với những đặc thù riêng. Đòi hỏi khắc nghiệt của thương trường buộc những người nông dân này chuyển đổi từ tư duy “làm ra nhiều nông sản” sang tư duy “làm ra nhiều giá trị từ nông sản”. Những người từng làm ra “chém cơm đầy” để chống đói hôm qua, nay phải biết làm ra “chén cơm ngon” để bán được giá. Thương trường là cạnh tranh, muốn cạnh tranh phải có nguồn lực và kiến thức, không chỉ kiến thức về canh tác, nuôi trồng mà còn kiến thức quản lý đồng vốn, quản trị doanh nghiệp.
Từ “Con đường lúa gạo miền Hậu Giang” trong lịch sử, từ ánh hào quang của kỳ tích hạt gạo đồng bằng trong hiện tại đến tương lai của những nông dân ĐBSCL phấn đấu làm giàu đang mở ra phía trước, nhưng không phải dễ dàng.  

Nhận xét

  1. Rất OK vể nội dung bài viết của bạn. Nhưng thiết nghĩ tình hình hiện nay không nên khoe thành tích XK gạo nữa mà cần phải tìm giả pháp không vắt kiệt đất trồng lúa mà nông dân vẫn khấm khá lên.

    Trả lờiXóa
  2. Đúng rồi, như câu kết của bài (nhưng cũng mở ra câu hỏi để cùng đi tìm) "Từ “Con đường lúa gạo miền Hậu Giang” trong lịch sử, từ ánh hào quang của kỳ tích hạt gạo đồng bằng trong hiện tại đến tương lai của những nông dân ĐBSCL phấn đấu làm giàu đang mở ra phía trước, nhưng không phải dễ dàng". Con đường đó, rất cần "giải pháp" như ý của bạn. Khoe? Tác giả bài viết và những người nông dân đbscl chắc chắn không muốn và sẽ không "khoe" dù họ xứng đáng được trân trọng.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...