Chuyển đến nội dung chính

Xuất khẩu nông sản – phía sau câu chuyện thần kỳ


Bài 1: Nông dân chịu thiệt
SGGP, Thứ sáu, 11/01/2013, 08:20 (GMT+7)
20 năm qua nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu mà chuyên gia nước ngoài nhận định, đó là “những câu chuyện thần kỳ”. Từ thiếu lương thực nhưng sau đó trở thành nước xuất khẩu gạo. Thị trường quốc tế về hồ tiêu, cà phê, nhân điều trước đây chưa có tên Việt Nam, vậy mà sau đó trở thành quốc gia xuất khẩu số 1, số 2 thế giới. Từ món ăn bình dân của người bản địa vùng đồng bằng sông Cửu Long, con cá tra Việt Nam trở thành mặt hàng xuất khẩu thống lĩnh thị trường thế giới. Những mặt hàng này đến nay vẫn ở tốp đầu thế giới nhưng bối cảnh đã khác, không thể chỉ nói về những con số mà phải là đời sống thực của con người tạo nên những sản phẩm đó thế nào.


Sản xuất gạo xuất khẩu tại Xí nghiệp lương thực Sài Gòn Satake. Ảnh: Cao Thăng

Nhiều điểm sáng
Theo Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn, năm 2012 tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản cả nước 27,5 tỷ USD, tăng 9,7% so với năm 2011 (gần 25 tỷ USD), chiếm 22% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước (khoảng 114,6 tỷ USD). Theo tiến sĩ Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Tư vấn chính sách (Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn-Ipsard), duy nhất ngành nông nghiệp có giá trị thặng dư thương mại 10,6 tỷ USD, tạo nguồn ngoại tệ quan trọng cho nền kinh tế đất nước, giúp giảm nhập siêu. Một lần nữa, các mặt hàng nông sản xuất khẩu tiếp tục là những điểm sáng lấp lánh trong bối cảnh nền kinh tế trì trệ kéo dài nhiều năm.
Lần đầu tiên Việt Nam vượt qua Brazil trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta nhiều nhất thế giới với khoảng 70% lượng cà phê Robusta giao dịch trên thị trường là từ Việt Nam khi năm nay xuất khẩu 1,76 triệu tấn cà phê, trị giá 3,7 tỷ USD, tăng 40% về lượng và 36% về giá trị so cùng kỳ năm trước. Năm nay, mặt hàng nhân điều mang về gần 1,5 tỷ USD kim ngạch với sản lượng 223.000 tấn, tăng 25,4% về lượng và 0,7% về giá trị so với năm 2011. Việt Nam tiếp tục giữ vững là nước xuất khẩu nhân hạt điều số 1 thế giới. Mặt hàng gạo năm nay đã vượt qua mức kỷ lục năm 2011 (7,1 triệu tấn, 3,5 tỷ USD) khi lượng xuất khẩu lên đến 7,72 triệu tấn với giá trị 3,4 tỷ USD, tăng gần 14% về lượng. Như vậy, Việt Nam vượt qua Thái Lan, quốc gia đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo từ bao lâu nay, chỉ sau Ấn Độ (9,7 triệu tấn). Thế nhưng, mặt hàng gây ngạc nhiên lớn chính là rau quả, với 770 triệu USD, tăng trên 120% so với năm 2011. Đây là ngành hàng xuất khẩu ì ạch nhất so với các nông sản khác từ nhiều năm nay. Với đà tăng này, mục tiêu phấn đấu 1 tỷ USD năm 2013 sẽ không khó nếu duy trì và phát huy được những thành quả đã đạt hiện nay. Sắn (khoai mì) và sản phẩm từ sắn cũng là mặt hàng có mức tăng tốc khá mạnh và vượt kim ngạch 1 tỷ USD.
Năm 2012 kim ngạch hồ tiêu khoảng 802 triệu USD nhờ xuất khẩu gần 120.000 tấn, giảm 4,3% về lượng nhưng lại tăng 9,6% giá trị. Giá tiêu xuất khẩu bình quân đạt 6.792 USD/tấn, tăng 15,8% so với năm trước. Việt Nam tiếp tục là nước xuất khẩu hồ tiêu số 1, chiếm hơn 50% lượng hàng giao dịch thế giới. Tuy là mặt hàng nhỏ bé nhưng giá trị và lợi nhuận của mặt hàng này mang lại rất ấn tượng. Diện tích hồ tiêu chỉ chiếm 2,5% trong tổng số gần 2 triệu ha của 5 loại cây công nghiệp nhưng lại chiếm trên 8% giá trị xuất khẩu, tương đương 6.800 USD/ha, gấp 4 lần cao su, 3,8 lần hạt điều, 2,6 lần cà phê, 6 lần trà (chè). Mỗi hécta hồ tiêu lãi 200-250 triệu đồng/ha/năm. Hồ tiêu lại có vị trí vững vàng và giá trị đáng nể. Đây là mặt hàng đầu tiên mà bà con nông dân không bán ra ồ ạt khi vào vụ thu hoạch, cùng tham gia dự trữ, điều tiết thị trường làm nhà nhập khẩu từ kinh ngạc đến lo ngại. Với mặt hàng gỗ chế biến, năm nay xuất khẩu 4,6 tỷ USD, tăng 10,5% năm 2012. Như vậy, so với năm 2000 (xuất khẩu 219 triệu USD) giá trị kim ngạch xuất khẩu gỗ chế biến tăng trên 20 lần, trở thành nước xuất khẩu gỗ số 1 vùng Đông Nam Á, số 2 châu Á (sau Trung Quốc) và thứ 6 thế giới.
Và mảng xám
Nếu đơn thuần căn cứ vào những con số thấy nhiều màu hồng, nhưng khi nhìn vào cuộc sống những người trực tiếp tạo ra các mặt hàng này là bà con nông dân sẽ thấy gam màu xám kém vui. Để góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung, bà con đã phải “gồng mình”, hy sinh nhiều hơn so với các thành phần khác trong xã hội. Chỉ số CPI mặt hàng lương thực trong nước không tăng cao, góp phần giảm mức lạm phát xuống 6,8%. Đời sống nông dân và vùng nông thôn luôn có một khoảng cách chênh lệch về thu nhập ngày càng lớn cũng như những hạn chế về tiện nghi đời sống so với người dân đô thị và công nghiệp. 70% người dân ở nông thôn chỉ chiếm 30% mức tiêu dùng xã hội.
Theo Tiến sĩ Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện KHKT nông nghiệp miền Nam, nếu như thu nhập bình quân người dân cả nước (năm 2011) khoảng 1.200 USD/người/năm thì thu nhập bình quân của bà con nông dân chỉ khoảng 700 USD/người/năm. Nhưng với người trồng lúa, đảm bảo cái ăn cho xã hội chỉ có 380 USD/người/năm. Hơn 4 năm nay, khi nền kinh tế cả nước gặp khó khăn trong bối cảnh suy thoái chung của thế giới thì bà con càng thêm nhiều “thương tích”. Năm nay, khi giá xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông sản đều giảm (trừ hồ tiêu) nên dù lượng xuất khẩu nhiều mặt hàng tăng nhưng giá trị lại giảm xuống như giá cà phê giảm 6,2%, giá nhân điều giảm 15%, giá gạo giảm 7,1%, giá sắn và sản phẩm sắn giảm 16,8%, cao su giảm gần phân nửa…
Điều đó có nghĩa là bà con nông dân đã phải gánh vác nhiều hơn, cật lực sản xuất nhiều sản phẩm hơn để xuất khẩu nhưng nhận lại ít hơn trên chính sản phẩm làm ra.
Công Phiên

Bài 2: Chật vật tìm thế đứng
Thứ bảy, 12/01/2013, 07:19 (GMT+7)
Dù nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chiếm vị trí hàng đầu thế giới, trong đó có những mặt hàng chiếm lượng giao dịch rất cao như hồ tiêu, cà phê, đặc biệt là mặt hàng cá tra. Nhưng thế mạnh và vị trí thật sự nhiều mặt hàng vẫn chưa thể xem là căn cơ. Bên cạnh nguyên nhân khách quan về thị trường và sự không ổn định của giá thì yếu tố chủ quan, sự thiếu liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp (DN) và giữa bản thân các DN do nghĩ đến cái lợi trước mắt lại là điểm yếu, tạo cơ hội cho nhà nhập khẩu khai thác triệt để trong giao dịch.
  • Khi ta hại ta
Mặt hàng cá tra phi lê đông lạnh Việt Nam chiếm hơn 95% hàng giao dịch thị trường thế giới. Lượng hàng vào Mỹ tăng mạnh từng năm, nhưng do mất đoàn kết làm giá bán giảm dần khiến Hiệp hội Cá nheo Mỹ có lý do để “hại” bằng việc vận động Bộ Thương mại Mỹ áp dụng Luật Bán chống phá giá với mức thuế từ 36%- 64%. Nhưng sản phẩm cá tra xuất khẩu Việt Nam không bị “chết yểu” như nhiều người lo ngại mà lại còn phát triển mạnh sau đó, khi mở rộng sang nhiều thị trường tiềm năng khác. Tuy vậy, mặt hàng này lại “chết trên sân nhà” do “căn bệnh” cố hữu “ta hại ta”.
Các DN tự cạnh tranh lẫn nhau, thay vì liên kết cùng giữ giá lại giảm giá bán để giành khách hàng. Vì vậy, sau thời gian phát triển manh mẽ, cuối những năm 2.000 ngành hàng cá tra bắt đầu “nấc cục”, tình trạng thừa rồi thiếu nguyên liệu lặp đi lặp lại làm cả người nuôi và DN “ngất ngư” khi “quân ta đánh quân mình”. Do mua bán chụp giựt, sẵn sàng giảm chất lượng, bán giảm giá để tranh giành mối đã bị nhà nhập khẩu chèn ép lại. Đến khi suy thoái kinh tế kéo dài thì những điểm yếu này bắt đầu lộ ra, nhiều DN “chết lâm sàng”. Không ít DN trên bờ phá sản hay mất cân đối thu chi. Khi ngân hàng siết chặt tín dụng làm cho khó khăn nhiều hơn, buộc DN phải bán giảm giá để thu hồi vốn, trả nợ đáo hạn làm cho tình hình thêm khó khăn. Số DN ngưng hoạt động, phá sản tăng mạnh năm 2012.
Nông dân thu hoạch lúa tại ĐBSCL. Ảnh: CAO THĂNG
Với ngành điều, mặt hàng có lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới từ 5-6 năm nay lại rơi vào bi kịch khác, lượng chế biến càng lớn kim ngạch xuất khẩu càng tăng. Năm 2012 xuất gần 1,5 tỷ USD nhưng diện tích điều trong nước ngày càng giảm, từ trên 450.000ha giờ đây chỉ còn 362.000 ha. Lượng điều nhập khẩu tăng dần, hiện nay ở mức 50%.
Chính vì điều này, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Bùi Bá Bổng cho rằng, một ngành dù chiếm vị trí cao trong xuất khẩu nhưng lại không chủ động nguyên liệu tại chỗ, phải đi nhập khẩu không thể nói là bền vững. Ngành điều phải chủ động tạo ra vùng nguyên liệu cao sản nếu không việc chế biến nhân điều xuất khẩu cũng chỉ là gia công.
Tiến sĩ Bùi Chí Bữu cảnh báo, nếu không nhanh chóng tạo ra vùng nguyên liệu trong nước, ngay cả việc nhập khẩu cũng có thể bị cạnh tranh gay gắt thời gian tới khi nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã sang châu Phi đầu tư vùng nguyên liệu và họ đang xây dựng nhiều nhà máy chế biến nhân điều hiện đại tại đảo Hải Nam (Trung Quốc) với tham vọng biến nơi này trở thành trung tâm chế biến nhân hạt điều lớn nhất thế giới.
  • Chấp nhận lùi để tiến
Thủy sản luôn là ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực và đứng ở vị trí cao của ngành nông nghiệp nói chung. Kim ngạch xuất khẩu năm 2012 là 6,17 tỷ USD, tăng 0,7%. Năm 2011 xuất khẩu thủy sản tăng 21,8%. Có thể nói đây là mức tăng thấp nhất của ngành hàng này trong nhiều năm qua. hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch lớn nhất của thủy sản là con tôm và cá tra đã không thể về đích. Năm nay xuất khẩu tôm chỉ đạt 2,25 tỷ USD, giảm 6,3% so với năm 2011.
Tại buổi tổng kết ngành tôm xuất khẩu năm 2012, ông Trần Thiện Hải, Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng, năm 2013 có 3 kịch bản về kim ngạch xuẩt khẩu mặt hàng này, có thể kim ngạch sẽ tiếp tục giảm chỉ còn 1,9 tỷ USD hoặc xấp xỉ như năm 2012, cũng có thể xuất hiện sự đột biến để tăng lên 2,5 tỷ USD. Nhưng đang nghiêng về kịch bản xấu nhất. Lý do là những khó khăn cơ bản của ngành tôm là dịch bệnh, chi phí đầu vào, vốn và dư lượng hóa chất (hiện nay là Ethoxyquin) vẫn chưa thấy triển vọng khắc phục sớm. Thức ăn (chiếm 50%-70%), chi phí giá thành bị DN nước ngoài chi phối, cùng với chi phí khác đều tăng nên giá thành con tôm Việt Nam cao hơn 15%-25% so với giá tôm Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Ecuador. Tỷ lệ nuôi thành công con tôm chỉ đạt 30%-40% trong khi Thái Lan là 70%.

Mặc dù ông Hoàng Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho rằng, vấn đề dịch bệnh (đặc biệt là hội chứng tôm chết sớm) đã cơ bản tìm được nguyên nhân, cũng như dư lượng Ethoxyquin trong thức ăn thủy sản, rào cản lớn nhất để xuất khẩu Nhật Bản đã được nhà sản xuất dùng chất khác thay thế. Nhưng các DN lại bi quan cho rằng, ngay cả chất thay thế cũng sắp nằm trong danh mục chuẩn bị cấm của Nhật Bản.
Trong khi đó, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi tôm Mỹ Thanh (Sóc Trăng), nơi tập hợp những trang trại nuôi tôm công nghiệp lớn nhất vùng ĐBSCL cho rằng, “căn bệnh” khó trị hiện nay của con tôm chính là bệnh thiếu vốn. Việc ngân hàng thắt chặt tín dụng và lãi suất cao trong bối cảnh người nuôi tôm bị kiệt sức, đã triệt tiêu khả năng nuôi của nhiều người.

Là tổng giám đốc đơn vị có kim ngạch xuất khẩu tôm đứng đầu cả nước với 320 triệu USD năm 2012 nhưng ông Trần Văn Quang (Công ty Minh Phú - Cà Mau) cho rằng, những nước khác chê thị trường Nhật Bản vì phải làm cực hơn, nhưng lại hưởng ít hơn nên đã “nhường” cho Việt Nam. Vì vậy, ông Trần Thiện Hải cho rằng, chúng ta cần chấp nhận thực tế hiện nay, phải tổ chức lại sản xuất, có thể kim ngạch giảm tiếp vào năm sau, chỉ khi việc sản xuất đi vào căn cơ sẽ tạo đà phát triển những năm sau đó. 
CÔNG PHIÊN

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...