* MINH HUYỀN - MỸ THANH
Kỳ 1: Nâng tầm từ khâu chọn giống lúa
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm hơn 50% sản lượng lúa hàng hóa cả nước và đóng góp gần 100% lượng gạo xuất khẩu hằng năm. Trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế trong 2 thập niên qua, nông nghiệp luôn là “bệ đỡ” của nền kinh tế thời kỳ khủng hoảng; trong đó có cây lúa. Theo các nhà khoa học, lịch sử phát triển của cây lúa ở ĐBSCL đã góp phần hình thành nên bộ giống lúa địa phương vô cùng đa dạng, phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái khác nhau. Bộ giống lúa này không chỉ phục vụ cho yêu cầu canh tác qua từng thời kỳ mà còn là nguồn tài nguyên di truyền vô giá cho quá trình nghiên cứu chọn tạo ra các giống lúa mới.
Hơn 20 năm trở lại thị trường xuất khẩu, Việt Nam vẫn giữ được “phong độ” và luôn nằm trong Top 3 thế giới về xuất khẩu gạo, nhưng hạt gạo Việt Nam vẫn chưa có thương hiệu tầm cỡ thế giới. Các nhà khoa học cho rằng, cần tăng cường đầu tư công nghệ để tăng năng suất lúa; trong đó coi đầu tư công nghệ cho khâu chọn giống là then chốt quyết định năng suất lúa, phẩm chất hạt gạo và tiến tới xây dựng thương hiệu gạo quốc gia. Mô hình “cánh đồng một giống”, “cánh đồng lớn” được ngành nông nghiệp và các địa phương triển khai rộng khắp thời gian qua, dù chặng đường phía trước đầy gian khó, nhưng đây là con đường duy nhất để hạt gạo Việt Nam vươn xa.
Những kỳ tích
|
Nông dân và cán bộ kỹ thuật, khuyến nông các tỉnh, thành vùng ĐBSCL tham gia đánh giá giống lúa vụ đông xuân 2012- 2013 tại Viện Lúa ĐBSCL. Ảnh: MỸ THANH
|
Những năm 1930, diện tích lúa nổi toàn vùng ĐBSCL đến 570.000 ha (chiếm 45% diện tích toàn vùng), đến năm 1980, diện tích này giảm xuống còn 300.000 ha và từ năm 1990 trở lại đây, hầu như không còn lúa nổi nữa mà thay vào đó là các giống lúa mới, ngắn ngày, năng suất cao được gieo trồng 2-3 vụ/năm. Từ 1 vụ lúa mùa của năm 1976 đã được nâng dần 2 vụ rồi 3 vụ, đây là xu hướng chuyển đổi tích cực nhằm đảm bảo chiến lược an ninh lương thực quốc gia và góp phần vào xuất khẩu. Theo thống kê của Cục Trồng trọt Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), trong hơn 20 năm qua, ĐBSCL đã gia tăng diện tích vụ lúa đông xuân gấp 8 lần, hè thu tăng 4,3 lần và vụ mùa giảm 3,4 lần.
Năm 1966, Trung tâm Thí nghiệm lúa (quận Long Định, tỉnh Định Tường cũ) thuộc Bộ Canh nông miền Nam (nay là Viện nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam ở xã Long Định, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) đã nhận 10kg lúa giống IR8 (thần nông 8) do Viện Lúa quốc tế (IRRI) cung cấp về trồng thử nghiệm trên diện tích 2.000m2. Năng suất thu hoạch giống IR8 4 tấn/ha, trong khi năng suất bình quân của lúa cổ truyền khoảng 2 tấn/ha. Đến vụ mùa 1968-1969, diện tích lúa IR8 đã phát triển lên 23.373ha. Sau đó, lần lượt các giống IR5, IR20, IR22 được du nhập thử nghiệm và phổ biến qua chương trình hợp tác với IRRI. Đến vụ mùa 1973-1974, diện tích lúa cải tiến chiếm đến 32% diện tích và 53% tổng sản lượng lúa của miền Nam. Sau năm 1975, một số viện nghiên cứu và trường đại học bắt đầu tham gia nghiên cứu các giống lúa mới đã mở ra hướng sản xuất mới cho vùng ĐBSCL. Giai đoạn 1991-2010, Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL (Trường Đại học Cần Thơ) phối hợp với Tổ chức Nâng cao Năng lực Cộng đồng vùng Đông Nam Á (SEARICE) triển khai Dự án Bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học cộng đồng ở ĐBSCL (CBDC). Theo Tiến sĩ Huỳnh Quang Tín, Trưởng Bộ môn Tài nguyên cây trồng, Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL Dự án đã thu thập được khoảng 932 mẫu giống lúa mùa ở ĐBSCL và hơn 500 giống lúa cạn. Những giống lúa này đã được bổ sung vào ngân hàng giống và đang được bảo quản tại Trường Đại học Cần Thơ. Đây là nguồn vật liệu di truyền hiếm có và là tài nguyên sinh vật quý giá phục vụ sản xuất.
Giáo sư- Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho biết, một khảo sát về 200 giống lúa truyền thống của Viện Lúa ĐBSCL trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước cho thấy: Về tiềm năng năng suất cao có giống Nàng Phệt, Một bụi, Nàng nhuận; Về tính kháng rầy có các giống Cà dung đỏ, Bông hường, Cà dung trắng, Chùm ruột xanh…; Về tính kháng bệnh đạo ôn có giống Tẻ tép với khả năng kháng bệnh cấp 1, IRRI đã dùng gien kháng này trong chọn tạo ra giống IR64 nổi tiếng…. Ngoài ra, những giống chống chịu mặn có Nàng co đỏ, Thần nông đỏ; Giống chịu phèn có Huyết rồng, Trắng lùn; Giống lúa nước sâu có Trắng chùm, Vàng lộn, Trắng phước; Giống lúa nổi có Nàng tây đùm, Nàng tây bông dừa, Ba sào,… Nguồn gien của các giống lúa truyền thống này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho quá trình phát triển các giống lúa mới phục vụ sản xuất. Theo lời kể của Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật, khi Viện Lúa ĐBSCL được thành lập, bắt đầu có các giống lúa mới lai tạo thành công và đưa vào sản xuất, làm chuyển đổi năng suất, chất lượng lúa gạo ở ĐBSCL. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong một lần về thăm Viện Lúa đã yêu cầu lấy tên OM (Ô Môn) để đặt tên cho các giống lúa do Viện chọn tạo để tỏ lòng biết ơn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương đã hỗ trợ cho các nhà khoa học tìm ra những giống lúa mới. Và có hàng ngàn dòng lai của IRRI được mang về lai tạo tại Viện Lúa ĐBSCL. Trong đó, 2 giống lúa IR64 và IR50404 vẫn “thịnh” tại ĐBSCL đến ngày nay.
Chuyển về chất
Hiện hơn 80% giống lúa được trồng ở ĐBSCL có nguồn gốc từ Viện Lúa ĐBSCL. Theo Phó Giáo sư-Tiến sĩ Phạm Văn Dư, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, cơ cấu mùa vụ tác động mạnh mẽ đến việc tuyển chọn cơ cấu giống và làm thay đổi kỹ thuật canh tác lúa ở Việt Nam. Với mục tiêu thâm canh tăng vụ, đảm bảo an ninh lương thực, từ những năm 80, các địa phương trong vùng rất phấn khởi khi tiếp cận với các giống lúa ngắn ngày, năng suất cao. Tiến sĩ Lê Hữu Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tiền Giang, cho biết: Huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang là một trong số những huyện thâm canh đi đầu trong tăng vụ cả nước. Năm 1968 chuyển từ lúa mùa sang lúa cao sản IR8 và năm 1979 bà con bắt đầu canh tác lúa 3 vụ, sau đó phát triển chậm lại do ảnh hưởng lũ lụt. Năm 1982-1983 phát triển trồng phổ biến 3 vụ/năm, năng suất lúa đạt 17-18 tấn/ha/năm. Và giống IR8 thời gian canh tác khoảng 110 ngày dần được thay thế bằng các giống ngắn ngày hơn của Viện Lúa ĐBSCL và Trường Đại học Cần Thơ lai tạo.
Theo Cục Trồng trọt, trong 20 năm (1986-2006), ở ĐBSCL đã có 26 giống lúa mới được phóng thích, đáp ứng yêu cầu sản xuất của các địa phương. Bộ giống lúa ngắn ngày đã tạo thuận lợi cho việc thay đổi cơ cấu mùa vụ, mở rộng diện tích lúa 3 vụ/ năm tại nhiều tỉnh ĐBSCL và góp phần vào việc gia tăng sản lượng lúa trong toàn vùng. Sản lượng lúa vùng ĐBSCL liên tục tăng lũy tiến. Các nhà khoa học Viện Lúa ĐBSCL đã đặt ra mục tiêu không chỉ tạo ra các giống có năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn mà tạo ra các giống phẩm chất tốt, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Ông Trần Văn Năm, nông dân xã Phú Đức, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, bộc bạch: “Tình hình thời tiết, hạn mặn diễn biến phức tạp, sâu bệnh gây hại làm chi phí sản xuất tăng cao. Tôi sản xuất giống IR50404 nhiều năm qua, nhưng đầu ra bấp bênh, thời gian gần đây các ngành chức năng khuyến cáo sản xuất lúa chất lượng cao, dễ bán, tôi mạnh dạn chuyển sang giống OM 4218, OM 4900. Giống lúa này có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt lại bán được giá nữa…”. Theo thống kê của ngành nông nghiệp các địa phương ĐBSCL, hiện diện tích gieo sạ giống chất lượng cao toàn vùng đạt từ 60-80%. Đây là bước chuyển lớn về chất, chứng tỏ sự ưu việt của các giống lúa lai tạo mới.
Hạt gạo ĐBSCL đã lập nên bao kỳ tích, tuy nhiên trên thực tế khâu chọn giống còn nhiều bất cập. Đơn cử, 1 vụ lúa có địa phương gieo sạ trên 20 giống lúa, thậm chí cả trăm giống. ĐBSCL vừa đảm bảo an ninh lương thực trong nước vừa xuất khẩu ra thế giới nhưng diện tích đất canh tác nông nghiệp đang thu hẹp dần thì hàng loạt vấn đề khó đặt ra cho các nhà khoa học trong quá trình ứng dụng công nghệ lai tạo giống lúa.
Kỳ 2: Xã hội hóa nhân giống lúa
Mặc dù đóng vai trò quan trọng, song hệ giống lúa chính thống (các viện,trường, trung tâm giống, trung tâm khuyến nông…) không thể đáp ứng đủ nhu cầu giống cho sản xuất lúa hiện tại và trong tương lai. Chính vì vậy, hệ thống nhân giống lúa ở ĐBSCL đang tồn tại song song hệ giống lúa chính thống và hệ thống giống lúa nông hộ. Các nhà khoa học nhận định, hai hệ thống này đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Và việc phối hợp giữa những nhà khoa học và nông dân đã đem đến một số thành công trong việc chọn lọc và phổ biến giống lúa mới vào sản xuất…
Mở rộng mạng lưới nhân giống lúa
|
Gieo sạ bằng giống xác nhận là một trong những yếu tố mang đến vụ mùa bội thu cho nông dân. Trong ảnh: Nông dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang phấn khởi vì lúa trúng mùa, trúng giá. Ảnh: MINH HUYỀN
|
Giữ nhiệm vụ giải quyết những vấn đề khoa học và công nghệ về cây lúa, phục vụ cho sự phát triển của ngành lúa gạo ĐBSCL, đến nay Viện Lúa ĐBSCL đã chuyển giao được 132 giống lúa mới mang tên OM. Trong đó có 45 giống được công nhận là giống quốc gia với các đặc tính: thời gian sinh trưởng ngắn, kháng sâu bệnh, phẩm chất gạo tốt, thích nghi với nhiều vùng sinh thái và cho năng suất từ 5-8 tấn/ha. Điển hình như: OM2395; OM2431; OM5490; OM10041; OM7347… Riêng năm 2012, có 15 giống lúa mới (OM 3995, OM 4488, OM 5166, OM 7348, OM 8928, OM 11267, OM 11270, OM 11271…) do viện lai tạo đã được Bộ NN&PTNT công nhận giống sản xuất thử. Ngoài ra, qua kết quả khảo nghiệm bộ giống do viện chọn tạo đã xác định được 23 giống triển vọng đưa vào Bộ giống khảo nghiệm quốc gia... Theo Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, kết quả khảo nghiệm, đánh giá giống lúa sẽ là cơ sở định hướng các nhà chọn tạo giống, cán bộ khuyến nông và nông dân lựa chọn, sử dụng những giống có hiệu quả hơn. Các giống lúa mới triển vọng được bình chọn sẽ tiếp tục được trồng khảo nghiệm ở 13 tỉnh, thành ĐBSCL để đánh giá khả năng thích nghi trên các tiểu vùng sinh thái, chọn ra những giống phù hợp với yêu cầu của từng địa phương.
Mới đây, tại Hội thảo "Đánh giá giống lúa vụ đông xuân 2012-2013", sau khi trực tiếp tham quan, đánh giá các giống lúa tại ruộng thực nghiệm, các đại biểu tiến hành bình chọn ra 10 giống lúa mới triển vọng nhất gồm: OMCS 2012, OM 10636, OM 9582, OM 8017, 0M 9921, 0M 9684, OM 20, OM 10373, OM 121 và OM 9818. Ông Từ Bá Đạt, nông dân xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, bộc bạch: "Cứ "đến hẹn lại lên", năm nào tôi cũng đến Viện Lúa để tham gia đánh giá và chọn ra các giống lúa phù hợp với địa phương mình. Năm nay, giống tôi tâm đắc nhất là OMCS 2012, giống này vừa kháng sâu bệnh, chịu mặn tốt lại có thể thay thế giống IR 50404". Ông Đạt cho biết sẽ liên hệ với Viện Lúa để mua giống OMCS 2012 siêu nguyên chủng về thử nghiệm trên đồng ruộng, nếu đạt kết quả tốt, ông tiếp tục nhân rộng diện tích.
Thời gian qua, nhiều địa phương vùng ĐBSCL đã "bắt tay" cùng các viện, trường chọn lọc 1-2 giống lúa để làm giống đặc trưng của địa phương. Năm 2009, TP Cần Thơ hợp đồng với Viện Lúa ĐBSCL thực hiện đề tài "Chọn tạo giống lúa năng suất-chất lượng cao phục vụ sản xuất lúa hàng hóa TP Cần Thơ" với 3 giống lúa mang thương hiệu Cần Thơ: Cần Thơ 1 (OM7347), Cần Thơ 2 và Cần Thơ 3. Giống Cần Thơ 1 đã được công nhận là giống lúa mới chính thức vào năm 2010 và đang hoàn thành thủ tục để Cục Trồng trọt công nhận là giống lúa mới phục vụ sản xuất ở các tỉnh phía Nam; Cần Thơ 2 đã được đăng ký nhãn hiệu hàng hóa vào năm 2011… Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Lang, Nghiên cứu viên cao cấp, Bộ môn Di truyền – Chọn giống, Viện Lúa ĐBSCL, chủ nhiệm đề tài, cho biết: "Ngoài phục vụ cho việc sản xuất lúa của địa phương, trong tương lai, các giống lúa này sẽ mở rộng phạm vi ra các tỉnh ĐBSCL nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất lúa hàng hóa, xuất khẩu… Hiện viện vẫn phối hợp với ngành nông nghiệp thành phố thường xuyên bám sát, cập nhật các thông tin phản hồi từ thực tiễn sản xuất lúa của địa phương nhằm hoàn thiện hơn các giống lúa mang thương hiệu Cần Thơ". Không chỉ riêng Cần Thơ, đến nay, hầu hết các tỉnh ĐBSCL đều đã chọn tạo được những giống lúa đặc trưng mang thương hiệu địa phương mình. Chẳng hạn, Sóc Trăng thành công với giống ST, Hậu Giang được biết đến với giống HG…
Các nhà khoa học cho rằng, công tác nghiên cứu ra các giống lúa mới chỉ dừng lại ở các phòng thí nghiệm nếu không có sự tham gia của mạng lưới nhân giống cộng đồng vào quá trình trồng khảo nghiệm các giống lúa mới trên đồng ruộng. Từ năm 2004, phong trào "xã hội hóa công tác nhân giống lúa" được phát động và nhân rộng ở nhiều địa phương. Như năm 2012, diện tích nhân giống lúa của An Giang trên 20.000ha với các giống chủ yếu như: OM 4218, OM 6976, OM 4900, Jasmine 85, OM 2517, OM 2514…. Ông Nguyễn Sĩ Lâm, Giám đốc Trung tâm Kiểm định và Kiểm nghiệm giống nông nghiệp tỉnh An Giang, cho biết: "Qua phong trào nhân giống cộng đồng, mỗi năm, An Giang có khả năng cung ứng đến 90% giống lúa xác nhận phục vụ sản xuất lúa hàng hóa của tỉnh và một phần cung ứng cho một số tổ giống, cơ sở kinh doanh giống có hợp đồng cung ứng giống ngoài tỉnh".
Phong trào "xã hội hóa công tác nhân giống lúa" cũng diễn ra rộng khắp tại các huyện trồng lúa trọng điểm của TP Cần Thơ. Hằng năm, TP Cần Thơ đầu tư kinh phí khoảng 500-600 triệu đồng để tổ chức sản xuất giống theo hệ thống giống 3 cấp cho các hộ, tổ, nhóm, câu lạc bộ, hợp tác xã, tổ hợp tác… Năm 2012, diện tích sản xuất lúa giống toàn thành phố hơn 4.603ha, tăng 13% so với năm 2011; sản lượng đạt gần 27.820 tấn, tăng 12% so với năm 2011. Bà Nguyễn Thị Kiều, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, cho biết: "Nông dân dần có ý thức trong việc sử dụng giống lúa xác nhận. Điều này được thể hiện qua cơ cấu giống lúa gieo sạ từng vụ. Các giống lúa chất lượng thấp có xu hướng giảm dần, thay vào đó, tỷ lệ sử dụng các giống lúa đặc sản, chất lượng cao tăng dần qua các năm và hiện đạt 80% diện tích gieo sạ.
Nhưng chưa đồng bộ
Vựa lúa ĐBSCL đang đứng trước nhiều thách thức vì các nhà khoa học đánh giá nơi đây là vùng nhạy cảm với "biến đổi khí hậu" (BĐKH). Thời tiết diễn biến thất thường: hạn, mặn, ngập lũ, dịch bệnh, độ bạc màu của đất tăng… Xâm nhập mặn sẽ gây thiệt hại đến sản xuất nông nghiệp của vùng, nhất là đối với cây ăn trái và lúa. Theo Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, BĐKH đặt ra với các nhà khoa học yêu cầu trong hiện tại và tương lai phải chọn ra những giống chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh, thích ứng với các điều kiện phèn, mặn, khô hạn, ngập úng,… đáp ứng yêu cầu của nông dân. Trong bộ giống lúa mà Viện Lúa ĐBSCL hàng năm đưa ra khảo nghiệm đều giới thiệu đến nông dân bộ giống cho vùng khó khăn để nông dân sản xuất ổn định. Ngoài ra, Viện không ngừng nghiên cứu đưa vào sản xuất các giống đạt tiêu chuẩn xuất khẩu để góp phần làm gia tăng giá trị xuất khẩu và tăng thu nhập cho người trồng lúa hướng đến xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam. Hiện khâu chọn giống được các cơ quan nghiên cứu, viện, trường làm rất tốt. "Một số địa phương vùng ĐBSCL đã triển khai hệ thống nhân giống 3 cấp, nhưng cũng còn một số nơi chưa quan tâm đầu tư. Thường thì Viện Lúa đưa giống siêu nguyên chủng, nguyên chủng cho các địa phương sản xuất ra giống xác nhận trồng đại trà, nên cần hệ thống nhân giống phát triển và đủ lực để làm. Giống xác nhận khi đưa vào canh tác phải được cấp chứng chỉ của các đơn vị kiểm nghiệm giống có uy tín. Nhưng trên thực tế 35% giống xác nhận đưa vào canh tác tại ĐBSCL chỉ khoảng 10% được cấp chứng chỉ"- Tiến sĩ Lê Văn Bảnh nói.
Tại TP Cần Thơ, sản xuất lúa giống 3 cấp được thành phố và nông dân quan tâm, tuy nhiên mới dừng lại ở việc sản xuất lúa giống cấp xác nhận và tập trung ở các HTX nhân giống, CLB nhân giống và các tổ hợp tác là chủ yếu. Việc sản xuất lúa giống cấp nguyên chủng tập trung ở các viện, công ty nông nghiệp và trại giống, trong nông dân việc nhân giống này còn ít. Riêng cấp giống siêu nguyên chủng chỉ có hai đơn vị cung ứng là Viện Lúa ĐBSCL và Công ty TNHH MTV Nông nghiệp Cờ Đỏ. Dù hằng năm, thành phố đầu tư kinh phí khoảng 500-600 triệu đồng để tổ chức sản xuất giống theo hệ thống giống 3 cấp cho các hộ, tổ, nhóm, câu lạc bộ, hợp tác xã,… Tuy nhiên, theo đánh giá của ngành nông nghiệp, do điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật của các đơn vị còn hạn chế, trình độ sản xuất giống lúa vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Việc kiểm định, kiểm nghiệm để chứng nhận lô giống phù hợp quy chuẩn chưa được thực hiện sâu rộng nên chất lượng hạt giống chưa thật sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tình hình sản xuất…
Các nhà khoa học xem việc phát triển các giống lúa mới là "cuộc chạy đua về đấu tranh sinh học" khi sâu bệnh, dịch hại, BĐKH diễn biến ngày càng phức tạp. Sóc Trăng được xem là địa phương thành công trong quá trình chọn tạo giống lúa ST phù hợp với điều kiện canh tác, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu và đã xây dựng thành công thương hiệu gạo thơm Sóc Trăng. Qua 22 năm nghiên cứu, Sóc Trăng đã chọn ra bộ giống từ ST 1 đến ST 21, nhưng theo Tiến sĩ Trần Tấn Phương, Phó Trưởng phòng Trồng trọt, Sở NN&PTNT tỉnh Sóc Trăng, hiện nhiều giống ST đã bị thoái hóa, không còn trồng nữa. Hiện chỉ còn 4-5 giống ST được nông dân đưa vào sản xuất. Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục nghiên cứu, duy trì và phát triển hình dạng hạt, chất lượng hạt và bổ sung các tính chất chống chịu phèn, mặn, rầy nâu… cho những giống ST còn ưu thế; trong đó, ưu tiên phát triển giống ST19 và ST20 phục vụ yêu cầu xuất khẩu.
Trên thực tế, hiện nhiều giống lúa mới của vùng ĐBSCL đã có biểu hiện thoái hóa. Như giống Jasmine 85 dù được nông dân trồng lúa ưa chuộng với ưu điểm khá cứng cây, không bạc bụng, hàm lượng amylose trung bình 20 - 21%, cơm mềm, có mùi thơm đặc trưng lại bán được giá cao; song qua nhiều vụ canh tác liên tục, giống lúa này bắt đầu phát sinh những điểm yếu. Ông Phan Văn Hòa, nông dân xã Phong Thạnh, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, cho biết: Qua nhiều năm canh tác, gần đây giống Jasmine 85 có biểu hiện thoái hóa và lẫn tạp dẫn tới hạt lúa không đồng đều, phẩm chất kém, mùi thơm cũng giảm đi nhiều. Vịn vào cớ này, khi thu mua, thương lái đổ lỗi nông dân làm lẫn lộn lúa thường với lúa thơm nên kéo giá thu mua xuống thấp. Còn theo ông Tô Thành Mong, nông dân xã Thới Tân, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ: "Tôi là một trong những nông dân đi đầu trong việc sản xuất giống Cần Thơ 2 (CT2) tại Cần Thơ. Giống này có thể kháng rầy, cứng cây, cho gạo thơm ngon không thua gì các giống lúa thơm, lúa chất lượng cao. Tuy nhiên, do vỏ khá dầy cộng với việc sản xuất diện tích quá ít nên khi thu mua, thương lái "bổ đồng" với các giống lúa thường. Đây là nguyên nhân khiến nhiều nông dân ngại mở rộng diện tích"… Những hạn chế này cần được nghiên cứu khắc phục để từng bước tiến tới xây dựng thương hiệu cho hạt ngọc Việt.
|
* MINH HUYỀN - MỸ THANH
Kỳ cuối: Xây dựng thương hiệu cho “hạt ngọc”
Mặc dù công tác chọn giống còn nhiều bất cập, nhưng cùng với sự chuyển đổi từ canh tác các giống lúa truyền thống sang các giống lúa cải tiến, hoạt động sản xuất, cung ứng giống lúa của các tỉnh, thành vùng ĐBSCL đang đi từ xã hội hóa nhân giống sang thương mại hóa hạt lúa giống. Nhiều ý kiến cho rằng, để “hạt ngọc” ĐBSCL vươn xa, các bộ ngành Trung ương và các địa phương cần hợp lực đề ra chính sách đồng bộ từ khâu chọn tạo, chuyển giao, nhân giống ra cộng đồng đến việc tìm đầu ra, tiến tới xây dựng thương hiệu hạt gạo…
Thương mại hóa lúa giống
|
Ông Danh Văn Dưỡng bên cánh đồng trồng giống lúa HNOE do chính mình lai tạo. Ảnh: MỸ THANH
|
Suốt 2 thập kỷ qua, rất nhiều nông dân ĐBSCL đam mê cây lúa đã bắt tay đầu tư, nghiên cứu và lai tạo nhiều giống lúa mới. Nông dân làm khoa học không còn là chuyện mới mẻ ở vùng đất lúa. Trong số các giống lúa được nông dân chọn tạo có thể kể đến một số giống lúa điển hình như: Hòn Đất –HĐ (huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang), Vĩnh Thạnh-VT (huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ), Thạnh Mỹ-TM (xã Thạnh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh) và các giống Núi Voi-NV (xã Núi Voi, huyện Tịnh Biên), Hồng Ngọc Óc Eo- HNOE (thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn), Tân Châu-TC (xã Tân An, huyện Tân Châu), Chợ Mới-CM (xã Nhơn Mỹ, huyện Chợ Mới) của tỉnh An Giang…
Ông Nguyễn Văn Tính, xã Mỹ Lâm, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, bộc bạch: “Tôi mong tìm một số giống phù hợp với vùng đất địa phương nhiễm phèn, mặn. Ban đầu gia đình cũng không đồng tình vì hiệu quả chưa thấy đâu trong khi tiêu tốn nhiều kinh phí. Vượt qua tất cả những cản ngại, hiện tôi đã lai tạo thành công 4 tổ hợp lai. Trong đó có 4 dòng thuần và 1 dòng được phóng thích. Sau 9 năm ròng, giống phóng thích Hòn Đất 1 (HĐ1) được Bộ NN&PTNT công nhận giống lúa mới cấp quốc gia có ưu điểm chống chịu rầy, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá, cứng cây, chịu phèn, mặn, thời gian sinh trưởng 95 ngày, cho năng suất bình quân từ 7-8 tấn/ha. Với diện tích sản xuất khoảng 10.000ha, hằng năm tôi cung ứng khoảng 70 tấn HĐ1 để phân phối trong tổ và các địa phương lân cận”. Được đánh giá là giống có chất lượng gạo ngon nên HĐ1 được thương lái mua cao hơn các giống khác từ 200-300 đồng/kg. Làm ăn khấm khá, nên ông Tính đã thành lập Công ty TNHH Sản xuất lúa giống Cây Lúa vàng.
ĐBSCL đang hướng tới “thương mại hóa lúa giống”, trên địa bàn tỉnh An Giang, Trà Vinh, Kiên Giang, Đồng Tháp… có nhiều tổ giống hoạt động mạnh, khả năng cung cấp hàng trăm tấn giống mỗi năm. Theo đánh giá của các nhà khoa học, các giống lúa nông dân lai tạo khi đưa vào thử nghiệm cho thấy rõ xu hướng chọn lọc giống của nông dân là chọn giống lúa thích nghi với điều kiện canh tác địa phương. Nông dân ý thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của việc chọn giống nên hầu hết những “đứa con” khi “ra đời” đều mang tên vùng quê mình sinh sống. “Giống HNOE cho hạt gạo màu hồng, khi nấu thành cơm có mùi thơm dịu, còn gạo là hạt ngọc trời ban nên khi lai tạo thành công, anh em trong tổ giống quyết định đặt tên giống là “Hồng Ngọc Óc Eo”. Với cái tên này, chúng tôi mong muốn “Hồng Ngọc Óc Eo” và vùng đất “ươm mầm” giống lúa này ngày càng vươn cao, vươn xa…” - ông Danh Văn Dưỡng, nông dân chọn tạo giống thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang chia sẻ. Sản xuất lúa giống cho hiệu quả kinh tế khá cao, nên thu hút đông đảo nông dân tham gia. Điển hình như ở tỉnh An Giang, thông thường, các công ty, cơ sở kinh doanh lúa giống ký hợp đồng tiêu thụ giống xác nhận với tổ giống cao hơn lúa hàng hóa từ 800-1.200 đồng/kg; nếu nông dân tự trao đổi giống, giá thỏa thuận cao hơn từ 500-3.000 đồng/kg. Với mức giá này, nông dân đạt lợi nhuận bình quân từ 17,3-24,4 triệu đồng/ha…
Hàng năm, TP Cần Thơ dành khoảng 1 tỉ đồng để thực hiện chính sách hỗ trợ giống lúa cho nông dân. Trong đó 50% tập trung cho hỗ trợ các giống lúa chất lượng cao, kết hợp với đẩy mạnh hệ thống sản xuất lúa 3 cấp. Ông Phạm Văn Quỳnh, Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, cho rằng: “Với 500 triệu đồng mà hỗ trợ giống cho hàng trăm ngàn hộ nông dân thì không thấm vào đâu. Song, với chủ trương nhân rộng giống lúa qua hệ thống nhân giống 3 cấp, dùng giống nguyên chủng, siêu nguyên chủng nhân ra trong cộng đồng để nông dân tự trao đổi với nhau thì giá thành lúa giống sẽ giảm xuống, tạo thuận lợi cho nông dân”. TP Cần Thơ xác định mục tiêu hướng đến canh tác các giống lúa cải tiến, lúa chất lượng cao mà chủ yếu là lúa thơm. Đến nay, bộ giống lúa thơm OM 4218, OM 4900, OM 7347 (CT1), OM 2517, Jasmine 85, VD 95-20 là bộ giống chủ lực của TP Cần Thơ. Hệ thống nhân giống 3 cấp với gần 20 loại giống khảo nghiệm để bổ sung cho sản xuất. Hiện nay, thành phố đã xây dựng được bộ giống sản xuất lúa hàng hóa của thành phố theo hướng hình thành vùng sản xuất chất lượng cao và đang phát triển hệ thống giống 3 cấp để cung ứng cho cả vùng. Mục tiêu là chuyển từ sản giống cung ứng trong dân đáp ứng nhu cầu tại chỗ sang phát triển thành vùng sản xuất, kinh doanh giống.
Hiện Cần Thơ đang đề xuất với Bộ NN&PTNT dựa vào hệ thống viện, trường để phát triển thành trung tâm kiểm định kiểm nghiệm giống cấp vùng. Ngành nông nghiệp thành phố đang phối hợp với Viện Lúa ĐBSCL thực hiện Dự án “Xây dựng hệ thống sản xuất và cung ứng giống lúa cho TP Cần Thơ”, với tổng kinh phí đầu tư trên 6,6 tỉ đồng, thời gian thực hiện dự án từ năm 2013-2016. Mục tiêu sau khi Dự án hoàn thành, mỗi năm TP Cần Thơ có khả năng cung ứng khoảng 4,5 tấn lúa giống siêu nguyên chủng, 450 tấn lúa giống nguyên chủng và hơn 22.000 tấn lúa giống cấp xác nhận... ra thị trường. Hiện ở TP Cần Thơ, sản xuất lúa giống cho thu nhập trên 52 triệu đồng/ha, lợi nhuận thu về 36 triệu đồng/ha.
Tạo dựng thương hiệu
Ông Nguyễn Sĩ Lâm, Giám đốc Trung tâm Kiểm định và Kiểm nghiệm giống nông nghiệp tỉnh An Giang, cho biết: “Nông dân chọn giống lúa rất kỹ và đa phần mua ở những cơ sở sản xuất có bao bì, nhãn mác, có thương hiệu và uy tín. Điều này đặt ra yêu cầu kiểm định, kiểm nghiệm và chứng minh chất lượng giống trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường. Năm 2011, Trung tâm được Cục Trồng trọt chỉ định là tổ chức chứng nhận chất lượng giống cây trồng. Đây là đơn vị sự nghiệp công lập đầu tiên ở ĐBSCL có đủ tư cách pháp nhân trong chứng nhận chất lượng giống cây trồng”… Nếu quy trình này được triển khai bài bản, đồng bộ sẽ đóng góp rất lớn cho con đường xây dựng thương hiệu hạt ngọc Việt.
Theo Viện Lúa ĐBSCL, diện tích sản xuất lúa ở ĐBSCL sử dụng hạt giống đạt tiêu chuẩn từ dưới 10% năm 1999 hiện tăng lên trên 35%. Đến nay có khoảng 80% diện tích tại ĐBSCL sử dụng các giống lúa do viện lai tạo. Không chỉ dừng lại ở việc sử dụng các phương pháp truyền thống để chọn tạo giống lúa, viện còn tiếp thu những thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ trên thế giới, đặc biệt là công nghệ sinh học. Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, cho biết: Với năng lực duy trì nguồn giống gốc, khả năng nghiên cứu, chọn tạo giống lúa mới, viện sẽ hỗ trợ đắc lực cho các tỉnh, thành vùng ĐBSCL trong việc sản xuất, cung ứng các giống nguyên chủng, siêu nguyên chủng. Đồng thời, cung cấp dịch vụ kiểm định, kiểm nghiệm; tổ chức tập huấn về kỹ thuật sản xuất lúa giống và thực hiện tác quyền giống lúa… Vấn đề còn lại, để các giống lúa đến tay người nông dân, ngành nông nghiệp các địa phương phải làm tròn vai trong việc phát huy hệ thống nhân giống 3 cấp. Thông qua các buổi hội thảo, tham quan, đánh giá các giống lúa triển vọng, mô hình nhân giống… giúp nông dân có cơ hội tiếp cận và tìm được giống lúa thích nghi với vùng canh tác.
Ông Hồ Quang Cua, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Sóc Trăng, chia sẻ: “Năm 1991 được đánh dấu như một cột mốc khởi đầu cho việc “Xây dựng thương hiệu gạo thơm Sóc Trăng” thông qua việc chọn giống. Tuy nhiên, thời điểm đó, xuất phát điểm thấp, vấn đề nhận thức xã hội, nguồn nhân lực hạn chế… là những rào cản khiến chúng tôi phải mất 20 năm để xây dựng nền tảng cho thương hiệu gạo thơm Sóc Trăng hôm nay”. Theo ông Cua, trong lĩnh vực xây dựng và phát triển gạo thơm Sóc Trăng nói riêng và thương hiệu gạo Việt Nam nói chung, sự hợp tác giữa “4 nhà” mang tính sống còn. Nhà nước hỗ trợ nông dân sản xuất giống siêu nguyên chủng và nguyên chủng, cấp “Chứng nhận nhãn hiệu Gạo thơm Sóc Trăng”, tài trợ cho mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn Global GAP, cấp kinh phí dự án “Xây dựng mô hình phát triển giống lúa thơm mới”…
Nhiều ý kiến cho rằng, bộ giống lúa phong phú của ĐBSCL sẽ giúp nông dân có nhiều lựa chọn để canh tác theo các điều kiện khác nhau. Tuy nhiên, nông dân khó tìm được đầu ra nếu chỉ canh tác với diện tích nhỏ lẻ. Mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” đang được nhân rộng ở các tỉnh, thành vùng ĐBSCL là môi trường thuận lợi để định hướng nông dân chuyển dần sang trồng các giống lúa thơm, lúa chất lượng cao và sản xuất với quy mô lớn, đáp ứng đơn đặt hàng từ phía các doanh nghiệp, phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Theo Giáo sư Võ Tòng Xuân, Nghị quyết 26 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa 10) được xem là cứu tinh cho nông dân trồng lúa Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng. Những hợp phần của một hệ thống sản xuất nông nghiệp theo thị trường hội nhập đã được Nghị quyết 26 nêu lên gần như đầy đủ. Vấn đề quan trọng ở đây là để thực hiện Nghị quyết thành công cần tiến hành tái cơ cấu lại hệ thống sản xuất nông nghiệp. Tập hợp nông dân tham gia vào hợp tác xã, tập đoàn trang trại hoặc cụm sản xuất trên cùng vùng quy hoạch sản xuất nguyên liệu nông sản theo chuỗi giá trị gia tăng bằng cách gắn liền với một nhóm công ty có cơ sở bảo quản, chế biến hàng hóa có thương hiệu và thiết lập được hệ thống phân phối sản phẩm cho thương hiệu đó. Toàn bộ tổ hợp nông dân và các công ty cung cấp vật tư và công ty chế biến tiêu thụ đầu ra sẽ hình thành một công ty dạng công ty cổ phần nông nghiệp tại từng vùng quy hoạch. Đồng thời phải xây dựng thương hiệu quốc gia cho hạt gạo Việt.
* * *
Những năm qua, các giống lúa mới đã được đưa vào sản xuất và đóng góp tích cực vào đảm bảo an ninh lương thực, xuất khẩu, khẳng định vị thế của vựa lúa ĐBSCL. Các nhà khoa học, nông dân và địa phương tham gia vào quá trình chọn tạo giống vẫn chạy đua “đấu tranh sinh học” để phát triển các giống lúa mới đáp ứng yêu cầu sản xuất trong tình hình mới. Vấn đề còn lại là phải có sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và người dân để các giống lúa đi vào thực tiễn sản xuất và góp phần không ngừng nâng cao giá trị của hạt ngọc ĐBSCL.
|
Nhận xét
Đăng nhận xét