Chuyển đến nội dung chính

Nông sản chủ lực ĐBSCL chờ cơ chế đặc thù

TRẦN HỮU HIỆP
Bài trang 1 - Báo SGGP, thứ sáu, 31/05/2013, 06:03 (GMT+7)
Từ năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xây dựng ĐBSCL thành vùng kinh tế trọng điểm về sản xuất lúa gạo, thủy sản. Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ giao cho Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ chủ trì phối hợp các ngành chức năng và những tỉnh, thành trong khu vực đề xuất cơ chế đặc thù phát triển 3 sản phẩm chủ lực của vùng bao gồm: lúa gạo, thủy sản và cây ăn trái. Theo đó, chủ trương của Nhà nước là không trực tiếp bao tiêu sản phẩm mà thực hiện theo cơ chế thị trường, dựa trên các chính sách khuyến khích doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ với nhà nông. Ưu tiên mời gọi xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư có chọn lọc những dự án khai thác các lĩnh vực thế mạnh của vùng như: chế biến sản phẩm nông nghiệp, thủy hải sản…
Cá tra - sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL dù tạo ra kỳ tích, nhưng đnag đứng trước nhiều khó khăn
Đầu bài rõ, nhưng giải bài toán không dễ. Vấn đề quan trọng là “làm ra” cơ chế, chính sách gì và nó đi vào cuộc sống như thế nào để thực sự là cái mà nông dân, doanh nghiệp cần, tiếp thêm sức mạnh cho các sản phẩm chủ lực cạnh tranh trong môi trường hội nhập và phát triển bền vững?
Thời gian qua, đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho nông dân, doanh nghiệp. Nhà nước đã quan tâm đầu tư từ cơ sở hạ tầng thủy lợi, giao thông, quy hoạch vùng nguyên liệu, đến hỗ trợ nông dân từ khâu giống, cơ giới hóa trong nông nghiệp, hỗ trợ sau thu hoạch, đến tiêu thụ nông sản, hỗ trợ vay tín dụng. Nhưng, thực tiễn ở nhiều địa phương cho thấy, chính sách chưa đi vào trọng tâm, không đồng bộ, khó phát huy tác dụng, chậm hoặc khó đi vào cuộc sống.
Nhiều địa phương, doanh nghiệp, nông dân rất phấn khởi trước chính sách hỗ trợ “cơ giới hóa trong nông nghiệp”, nhưng do bị buộc mua máy móc nội địa hóa ít nhất 60%, nên họ đành “từ chối hỗ trợ” để chọn máy ngoại giá cả chấp nhận được, tiện dụng và chất lượng tốt hơn. Các doanh nghiệp hưởng ứng chủ trương xây kho tạm trữ lúa vừa qua, đến nay vẫn chưa được hỗ trợ lãi suất vay vốn đầu tư do nhiều điều kiện, thủ tục khó đảm bảo. Tương tự, còn nhiều nông dân, doanh nghiệp không tiếp cận được vốn vay hỗ trợ khó khăn vì việc hỗ trợ vốn vay luôn kèm theo điều kiện “đòi thế chấp tiếp”. Chủ trương hỗ trợ phát triển hệ thống trạm bơm điện để chủ động tưới tiêu trong vùng nguyên liệu lúa, mía... là đúng đắn, đã có từ lâu, nhưng khó thu hút các thành phần kinh tế đầu tư do thực hiện thiếu đồng bộ vì cho đến nay Tập đoàn điện lực Việt Nam vẫn chưa có đề án phát triển lưới điện cung cấp điện cho các trạm bơm điện quy mô vừa và nhỏ cho vùng ĐBSCL. Mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” được triển khai mấy năm qua, được nhiều người quan tâm cũng đang chờ tháo gỡ bằng các chính sách tiếp sức như đầu tư kênh mương thủy lợi, hỗ trợ giống, hỗ trợ đầu tư máy nông nghiệp, hệ thống sấy lúa...
Các chính sách hỗ trợ kinh tế thường “theo đuôi” các thiệt hại, như hỗ trợ người nuôi khi heo bị dịch bệnh lở mồm, long móng, cúm gia cầm, người trồng lúa khi lúa bị bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, hỗ trợ người trồng dừa khi dừa xuống giá, mua lúa tạm trữ, mua cá tra ... khi hàng tồn đọng nên dẫn đến bị động. Do vậy, tư duy làm chính sách cần được đổi mới, mang tính chủ động, dựa vào thế mạnh, tiếp cận theo chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực vùng. Để có được một cơ chế, chính sách đặc thù cần tư duy tiếp cận thực tiễn, thước đo hiệu quả của cơ chế chính sách và tính chủ động như vậy. Vấn đề còn lại là phải gắn lợi ích của nhà nước với định hướng và quy hoạch của nhà nước. 
Để tạo bước đột phá qua liên kết vùng và tham gia “4 nhà”, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ đã xây dựng đề án tổng thể với 5 dự án nhằm phát triển sản xuất lúa - gạo, cây ăn trái, cá da trơn, tôm nước mặn và nâng cao thu nhập nông dân qua đào tạo nghề. Cụ thể, cây lúa phải được quy hoạch và đầu tư theo vùng sản xuất; tạo điều kiện để liên kết về giống, quy trình sản xuất, công nghệ sau thu hoạch, tổ chức sản xuất nông dân nối kết với doanh nghiệp. Mỗi tỉnh chọn ra 1 - 2 loại trái cây và 3 - 4 cây trồng phụ, qua đó, địa phương nào có lợi thế so sánh về cây trồng chủ lực sẽ tổ chức với địa phương khác để đầu tư sản xuất theo tiêu chuẩn Viet Gap và Global Gap. Đề án còn hướng đến mục tiêu lai tạo và chọn lọc những giống lúa, cây ăn quả, cá da trơn, tôm có năng suất, chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, có khả năng chống chịu dịch bệnh và thích ứng với điều kiện khí hậu của từng tiểu vùng sản xuất ở ĐBSCL; xác định các giải pháp kỹ thuật trong quá trình canh tác và sau thu hoạch để giảm giá thành sản xuất, nâng cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi; nâng cao năng lực cạnh tranh ngành hàng lúa gạo, trái cây, cá da trơn và tôm, trong đó, việc nối kết nông dân với doanh nghiệp từ sản xuất đến tiêu thụ được đặc biệt chú trọng. Nâng cao thu nhập cho nông dân thông qua việc huấn luyện và chuyển giao khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý nông nghiệp; chuyển dịch lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp theo phương châm “ly nông bất ly hương”. Có thực hiện được các giải pháp trên mới có thể thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, xây dựng ĐBSCL trở thành vùng trọng điểm nông sản thật sự!

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...