Văn Dương - Hồng Ân
ĐẦU
TƯ VÀ TIẾP THỊ - 09:20 AM 13/07/2022
Nhằm giảm thiểu những ảnh
hưởng tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu, các hình thái thời tiết cực
đoan, diễn biến dị thường cũng như bảo vệ môi trường sinh thái, thời gian qua
ngành Nông nghiệp đã tích cực phối hợp với các địa phương vùng Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) hỗ trợ nông dân triển khai các mô hình sản xuất phát triển bền
vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày
18/6/2022 về một số nhiệm vụ thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn bền
vững vùng ĐBSCL, chủ động thích ứng biến đổi thúc đẩy phát triển nông nghiệp và
nông thôn bền vững vùng ĐBSCL, chủ động thích ứng biến đổi khí hậu.
Chỉ thị của Thủ tướng yêu cầu các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương vùng ĐBSCL cần đổi mới tư duy, cách tiếp cận
phát triển theo hướng "tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, thích ứng chủ
động, chuyển đổi linh hoạt, giá trị nâng cao, nguồn lực công - tư, đời sống
chất lượng", triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã được nêu tại
các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ.
ĐBSCL là vựa lúa, trung tâm sản xuất thủy sản, trái cây lớn nhất cả nước. |
ĐBSCL giữ vị thế hết sức quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và trong giao thương với các nước.
Vựa lúa, trung tâm sản xuất thủy sản, trái cây lớn nhất cả
nước
ĐBSCL giữ vị thế hết sức quan trọng về chính trị, kinh tế,
xã hội, an ninh quốc phòng và trong giao thương với các nước ASEAN, Tiểu vùng
sông Mê Kông; là vựa lúa, trung tâm sản xuất thủy sản, trái cây lớn nhất cả
nước; đóng góp 31,37% GDP toàn ngành nông nghiệp với hơn 50% sản lượng lúa, 65%
sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% lượng trái cây, 95% lượng gạo xuất khẩu và
60% sản lượng thủy sản xuất khẩu; đóng vai trò quan trọng đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia và xuất khẩu.
Năm 2021, dù chịu ảnh hưởng lớn của dịch COVID-19, giá trị
gia tăng tổng sản phẩm nông nghiệp vùng ĐBSCL đạt 1,6%; 69,68% số xã đạt chuẩn
Nông thôn mới, 37 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ
xây dựng NTM; phát triển các hình thức tổ chức sản xuất được thúc đẩy theo
hướng tăng cường hợp tác, liên kết giữa sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ
sản phẩm; hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được quan tâm đầu tư, góp phần phát
triển sản xuất, bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản người dân.
Tuy nhiên, ĐBSCL phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế và đầu tư của nhà nước, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển,
nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được đầu tư bài bản, đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân còn hạn chế so với một số vùng.
ĐBSCL đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ tác động
của biến đổi khí hậu, khai thác sử dụng nước ở thượng nguồn; những yếu kém nội
tại của nền sản xuất nhỏ, thiếu hợp tác, liên kết; cơ sở hạ tầng còn bất cập
trước yêu cầu sản xuất quy mô lớn, thiếu hạ tầng logistics phục vụ nông nghiệp;
các hình thức tổ chức sản xuất, hợp tác xã nông nghiệp còn bất cập, hiệu quả
chưa cao; biến động thị trường khó lường với xu thế tiêu dùng xanh đòi hỏi tiêu
chuẩn an toàn ngày càng cao.
Bởi vậy, mục tiêu thời gian tới là phát triển ĐBSCL nhanh, bền vững; chủ động thích ứng với BĐKH; tạo đột phá nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân; giữ vững an ninh quốc phòng, ổn định chính trị, trật tự xã hội. Tập trung phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng "nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh"; xác định "nông nghiệp là động lực, nông dân là trung tâm, nông thôn là nền tảng", "chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp".
Trên cơ sở phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ,
hiện đại, thông minh, ĐBSCL sẽ phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, chất
lượng cao, kết hợp với thương mại, dịch vụ logistics, du lịch sinh thái, công
nghiệp chế biến, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh; gắn kết chặt chẽ giữa nông
nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, giữa nông thôn với đô thị.
Phát triển nông nghiệp bền vững, chủ động thích ứng biến đổi
khí hậu
Nhằm chủ động thích ứng với BĐKH và bảo vệ môi trường,
ngành Nông nghiệp tỉnh Bạc Liêu đã chủ động xây dựng những mô hình sản xuất
theo hướng thích ứng, hiệu quả và bền vững. Điển hình là mô hình nuôi tôm công
nghệ cao trong nhà kính.
Đây là mô hình kiểm soát môi trường nuôi tôm trong nhà
kính, không chịu tác động diễn biến thời tiết bên ngoài; sản lượng và chất
lượng tôm nuôi tăng cao, đảm bảo cung ứng xuất khẩu. Đặc biệt là mô hình tôm -
lúa, được các nhà khoa học khẳng định là thích hợp với BĐKH. Bởi mô hình ít gây
tác động tiêu cực tới môi trường xung quanh, phù hợp với khả năng của đa số
nông dân.
Đến năm 2030 "xây dựng vùng ĐBSCL hiện đại, sinh thái, văn minh, phát triển nhanh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước; là trung tâm kinh tế nông nghiệp xanh, sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng và giá trị gia tăng cao của quốc gia, khu vực và thế giới".
Khi nuôi tôm, nền đất trở nên màu mỡ hơn, giúp cây lúa phát
triển mạnh, giảm được chi phí phân bón cũng như thuốc bảo vệ thực vật. Ngược
lại, sau mỗi vụ lúa, đất được cải tạo, môi trường thuận lợi, thả tôm mau lớn,
ít gặp rủi ro về dịch bệnh. Bên cạnh đó, mô hình sản xuất lúa hữu cơ, sử dụng
giống lúa chất lượng cao và áp dụng quy trình "1 phải - 5 giảm"…
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, mục tiêu
tới năm 2025, tốc độ tăng GDP nông nghiệp vùng ĐBSCL đạt trên 3%/năm; tốc độ
tăng giá trị chế biến nông, lâm, thủy sản trên 7%/năm; tốc độ tăng năng suất
lao động nông, lâm, thủy sản trên 6%/năm; tỷ lệ giá trị sản phẩm nông, lâm,
thủy sản được sản xuất dưới các hình thức hợp tác và liên kết trên 30%.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định một số
nhiệm vụ trọng tâm như xây dựng và tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch và
các đề án lớn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn vùng; tổ chức lại sản
xuất nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh hợp tác, liên kết sản xuất giữa doanh
nghiệp và các hợp tác xã; phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư công,
thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối tác công - tư đối với xây dựng các trung tâm
logistics phục vụ kinh tế nông nghiệp, các khu công nghiệp chế biến nông sản,
các cụm công nghiệp - dịch vụ tại các vùng lõi của vùng chuyên canh chủ lực.
Là phần cuối cùng của châu thổ sông Mê Kông, sau hơn
35 năm đổi mới, ĐBSCL đã trở thành vùng nông nghiệp trọng điểm của cả
nước; đóng góp 54% sản lượng lúa cả nước, 70% sản lượng thủy sản nuôi trồng,
37% sản lượng trái cây, 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 60% kim ngạch xuất khẩu
tôm… đảm bảo sinh kế cho hơn 18 triệu người dân trong vùng cũng như đóng
góp đặc biệt quan trọng đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước.
Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cá Bé giúp cho nhiều địa phương
khác ở ĐBSCL như Hậu Giang, Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng hưởng lợi rất nhiều
trong việc kiểm soát nguồn nước mặn, ngọt; tạo nguồn nước ngọt cho các vùng ven
biển, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng chống
thiên tai cũng như tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo
đất phèn, giảm thiểu tác hại của việc xâm nhập mặn vào vùng bán
đảo Cà Mau tạo điều kiện thuận lợi cho hàng vạn người dân ổn định sản
xuất nông nghiệp.
Theo Lãnh đạo Ban Quản lý Đầu Tư và Xây dựng Thủy lợi 10 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho biết, Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1 là dự án lớn, kỹ thuật đặc biệt phức tạp, vùng hưởng lợi và tác động rộng lớn.
Theo đánh giá của các địa phương trong vùng hưởng lợi, các
công trình đã đáp ứng tương đối tốt nhiệm vụ chính của Dự án (kiểm soát ổn định
nguồn nước để phục vụ cho yêu cầu sản xuất của các hệ sinh thái nguồn nước khác
nhau trong vùng dự án).
Tại tỉnh Hậu Giang: Mùa khô 2021 - 2022 là năm đầu tiên
trong điều kiện nguồn nước tương tự không còn bị mặn xâm nhập từ sông Cái Lớn
gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt. Còn tại tỉnh Kiên
Giang: Vùng sinh thái ngọt hoàn toàn (khoảng 145.600 ha) đã được kiểm soát
không bị xâm nhập mặn, vùng sinh thái lợ (chủ yếu mô hình tôm - lúa) đã cơ bản
được kiểm soát nguồn nước có độ mặn phù hợp cho nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh đó, địa phương không phải đắp hơn 120 đập tạm như
các năm trước (tiết kiệm được hàng chục tỷ đồng, giảm ô nhiễm môi trường và
không ảnh hưởng đến giao thông thủy). Trong thời gian vận hành vừa qua, các tác
động đều nằm trong dự báo, chưa ghi nhận các tác động xấu đến môi trường.
Chuyển từ sản xuất sang tư duy và thực hành kinh tế nông nghiệp
Đồng bằng Sông Cửu Long là trung tâm sản xuất nông nghiệp
lớn nhất của cả nước, thực hiện sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
và xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho 65% dân cư của vùng. Bước đầu thành công
trong tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng xoay trục sản phẩm chủ lực thủy sản -
trái cây - lúa gạo chất lượng cao, đời sống vật chất và tinh thần của người dân
được nâng lên. Đã hình thành các mô hình chuyên canh lúa, cây ăn trái và thủy
sản, áp dụng công nghệ cao, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, hiệu quả, tăng lợi
thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế.
Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp - Chuyên gia nghiên cứu độc lập về phát
triển kinh tế của vùng ĐBSCL cho rằng, Nông nghiệp gắn liền với tài nguyên
nước, tài nguyên đất và khí hậu. Cả 3 vấn đề này đang là thách thức lớn ở 3 cấp
độ, cấp độ nội vùng ĐBSCL, hai là cấp độ khu vực (hạ lưu sông Mê Kông bao gồm:
Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan) và cấp độ rộng lớn hơn là cấp độ toàn cầu.
Theo Tiến sĩ Hiệp, ĐBSCL được xác định là 1 trong 3 đồng bằng chịu tác động nặng nề nhất biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tài nguyên nước với số liệu đo đếm được trong vòng 50 năm qua, khoảng 160 tỷ m3 nước chảy về các vùng sông Tiền, sông Hậu giảm khoảng 40%. Rõ ràng thách thức về nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp và thủy sản ngày càng khan hiếm, chất lượng nước và chất lượng phù sa cũng ít đi. Việc xây chuỗi đập thủy điện, người ta gọi là "túi nước treo trên dòng Mê Kông"; thủy điện, những dự án chuyển nước trên dòng chính được gọi là "chích máu dòng Mê Kông".
Đây không chỉ là những cái riêng lẻ mà tác động tích lũy
liên hoàn tạo nên thách thức lớn trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản, mà bắt
buộc ngành Nông nghiệp không thể tiếp cận cách sản xuất cũ (kinh nghiệm nông
nghiệp truyền thống) mà phải chuyển đổi sang cách tiếp cận mới (thích ứng thay
đổi, chủ động bằng việc sử dụng tốt công nghệ, tăng cường liên kết) đã được thể
hiện rõ trong Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển
bền vững đồng ĐBSCL thích ứng biến đổi khí hậu và Bản Quy hoạch vùng ĐBSCL thời
kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, xác định "lấy tài nguyên nước làm cốt
lõi, lấy con người làm trung tâm, lấy văn hóa bản địa làm nền tảng" để
phát triển trên 3 trụ cột "kinh tế, xã hội và môi trường".
Nhiều thách thức phải đối mặt, nhưng cũng có thời cơ là
chúng ta đang chuyển đổi tư duy, tầm nhìn, cách tiếp cận. Bốn cái mới cũng được
xác định trong bản quy hoạch "tư duy mới, tầm nhìn mới, cơ hội mới và kỳ
vọng tạo ra những giá trị mới".
Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp cũng nêu ra 4 giải pháp giúp Nông nghiệp ĐBSCL phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đó là, phải chuyển từ Nông nghiệp chủ yếu là sản xuất sang tư duy và thực hành kinh tế nông nghiệp (trước đây chủ yếu sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào thời tiết, vào nước thì ngày nay, chủ động hơn bằng cách thích ứng, ĐBSCL tài nguyên nước mặn cũng là tài nguyên chia ra rất rõ 3 vùng sinh thái tiếp cận theo tài nguyên nước đó là vùng nước ngọt, nước lợ, nước mặn và thích ứng với những tiểu vùng là phát triển cây trồng, vật nuôi thích hợp như: nước ngọt thì các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, một phần của Kiên Giang thì trồng lúa và nuôi thủy sản nước ngọt; vùng nguyên liệu trái cây thì Đồng Tháp, An Giang; vùng nước mặn phát triển chủ yếu là thủy sản và kinh tế biển.
Hai là, thích ứng "thuận thiên" không có nghĩa là
để mặc cho tự nhiên mà phải đầu tư chủ động bằng khoa học công nghệ (đầu tư cơ
sở hạ tầng về thủy lợi, cơ sở hạ tầng về giao thông, logistics) tất cả những hạ
tầng này giúp bổ trợ cho Nông nghiệp. Bên cạnh đó, cần có những giải pháp, lộ
trình để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông logistics gắn kết với thủy
lợi.
Ba là nhân lực, rõ ràng đây là điểm yếu của vùng. Làm sao
chuyển được phần lớn những người Nông dân ngày xưa chủ yếu sản xuất Nông nghiệp
bằng kinh nghiệm truyền thống, thì bây giờ phải là những "doanh nhân nông
nghiệp".
Bốn là, tăng cường liên kết. Liên kết này không chỉ trong
phạm vi các tỉnh với nhau hay các tiểu vùng mà là liên vùng với TP Hồ Chí Minh
là một trung tâm kinh tế lớn nhất nước, cửa ngỏ đầu vào cũng như đầu ra của
hàng hóa. ĐBSCL đặc biệt thế mạnh Nông nghiệp, Thủy sản; còn TP Hồ Chí Minh thế
mạnh đặc biệt là Thương mại, Dịch vụ và Công nghiệp, kể cả hạ tầng giao thông,
logistics của TP Hồ Chí Minh, liên kết này sẽ giúp tạo nên được nền Nông nghiệp
ĐBSCL phát triển bền vững và hiện đại.
Nhận xét
Đăng nhận xét