Chuyển đến nội dung chính

Niềm vui và nỗi lo gạo Việt

 Trần Hữu Hiệp

ĐTTC - 28/06/2022 09:11 (GMT+7)

(ĐTTCO) - Cùng hàng loạt mặt hàng tăng giá, dự báo giá lương thực thế giới còn tiếp tục tăng, Việt Nam nắm bắt cơ hội trong thách thức như thế nào? Câu hỏi cần lời giải cho ngành lúa gạo, các ngành kinh tế liên quan, doanh nghiệp nông nghiệp và bà con nông dân.

Giá lương thực vẫn tiếp tục tăng

Theo Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc (FAO), chỉ số lương thực thế giới tháng 4 đã tăng 30% so với cùng kỳ năm trước và 60% so 2019, trước khi xảy ra đại dịch Covid-19. Đây là mức tăng kỷ lục so 2 thời điểm biến động giá lương thực tăng cao nhất đã từng xảy ra vào năm 2008 và 2011.

Cùng với giá lương thực, giá gạo thế giới tháng 5 cũng tăng, là tháng thứ 5 liên tiếp tăng cao. Nhiều tổ chức dự báo thị trường lương thực, thực phẩm thế giới còn tiếp tục tăng giá khi khan hiếm nguồn cung, nguy cơ mất an ninh lương thực tại nhiều quốc gia. 

Trong bối cảnh đó, Ấn Độ - quốc gia nhiều năm liền luôn trong top 3 nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới và là nước sản xuất lúa mì lớn thứ 2, chỉ sau Trung Quốc-  đã công bố lệnh cấm xuất khẩu mặt hàng này. Indonesia cũng tạm dừng xuất khẩu một số loại dầu cọ trong nỗ lực giảm giá dầu ăn trong nước đang tăng cao.

Tại các quốc gia châu Phi, nhiều nhà máy xay xát hết nguyên liệu lúa mì phải ngừng hoạt động; giá lương thực thực phẩm tăng buộc người dân phải tìm các sản phẩm tiêu dùng thay thế giá rẻ hơn. Thế giới đối mặt trước nguy cơ khủng hoảng lương thực, điều này tác động như thế nào đến Việt Nam?

Là nước nông nghiệp, trong nhóm 15 quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, có nhiều mặt hàng như cà phê, lúa gạo, chè, hạt điều, thủy sản... chiếm thị phần lớn, sản lượng cao hàng đầu thế giới.

Năm 2021, dù bị ảnh hưởng nặng nề do đại dịch, xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn đạt kim ngạch 48,6 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước trong 5 tháng đầu năm 2022 tiếp tục tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước; có 9 sản phẩm/nhóm sản phẩm đã đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có cà phê,  gạo, hạt điều, nhóm rau quả, cá tra, tôm. 

Tuy nhiên, trong niềm vui có nỗi lo, đó là “tác động ngược” của tình hình này khi chúng ta cũng đang phải nhập nhiều mặt hàng nông sản cho tiêu dùng trong nước và làm nguyên liệu cho các ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi, thủy sản và nhiều ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm khác.

Ngành sản xuất bánh kẹo, thực phẩm sử dụng nhiều bột mì, ngũ cốc… nhập khẩu đang gặp áp lực lớn do nguồn cung đứt gãy và giá nguyên liệu đầu vào tăng cao. Chỉ riêng thức ăn chăn nuôi, mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu hơn 22 triệu tấn nguyên liệu.

Việc tăng giá các nguyên liệu này trên thị trường thế giới, gây áp lực tăng giá thành sản xuất và ảnh hưởng lớn đến đầu vào, đặc biệt tác động tiêu cực đến nông dân trong điều kiện tín dụng hạn chế. Đầu vào sản xuất của nông dân còn chịu sức ép nặng nề khi phân bón, vật tư nông nghiệp, xăng dầu tăng rất cao. 

Quan trọng là nông dân có được lợi?

Trước những biến động của giá thị trường thế giới và lo ngại về bất ổn an ninh lương thực, đòi hỏi chúng ta phải đảm bảo một ngành kinh tế lúa gạo “thích ứng”. Ngành lúa gạo nước ta đã có bước chuyển từ “dấu chân lấm bùn” của kinh tế tự nhiên, nông nghiệp truyền thống sang kinh tế tri thức, nhưng cần tăng tốc hơn nữa để tham gia sâu rộng hơn chuỗi giá trị công nghiệp sáng tạo toàn cầu.

Nhìn tổng thể, ngành hàng lúa gạo cần tiếp tục vượt qua lối mòn tư duy sản xuất nặng đầu vào, nhẹ đầu ra, tăng diện tích, mùa vụ, sản lượng các mặt hàng nông sản, đặc biệt là không đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng ngày càng khắt khe theo các phân khúc thị trường.

Muốn làm được điều đó, gạo Việt rất cần trợ lực và sức bật mới từ các ngành công nghiệp sau gạo có giá trị gia tăng như thực phẩm tiêu dùng (dầu ăn, sữa gạo, thức uống dinh dưỡng...), vật liệu (đánh bóng kim loại), sơn (nano chống cháy), ngành dược, mỹ phẩm, ngành công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, thủy sản… bằng công nghệ đầu tư, chế biến sâu và cuộc chuyển đổi số toàn diện cho ngành hàng lúa gạo.

Sự tiếp cận vùng, theo chuỗi ứng dụng công nghệ, phát huy đổi mới sáng tạo và những ưu thế của kinh tế số, kinh tế chia sẻ không xa lạ với nông dân và người tiêu dùng, nhưng “lúa gạo digital” cần chuỗi giá trị liên kết chặt chẽ các tác nhân tham gia quy trình trong mối quan hệ gắn bó công nghệ, thị trường, lợi ích. 

Mục tiêu giải quyết đầu ra cho hạt lúa và hỗ trợ nông dân, điều quan trọng nhất là cơ chế thực thi, giải bài toán chi phí và lợi ích, đặc biệt là đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng. Tận dụng giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cũng cần hợp lý hóa sản xuất, giảm thiểu tối đa chi phí đầu vào mới mong tăng lợi nhuận từ ngành trồng lúa, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân.

 Tận dụng giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cũng cần hợp lý hóa sản xuất, giảm thiểu tối đa chi phí đầu vào mới mong tăng lợi nhuận từ ngành trồng lúa, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân.

https://dttc.sggp.org.vn/niem-vui-va-noi-lo-gao-viet-post95568.html

 


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...