Trần Hữu Hiệp
Tiền Phong - 24/03/2024
| 10:45
Hạn
hán, xâm nhập mặn đang diễn ra gay gắt tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
(miền Tây), do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, và các đập nước
thượng nguồn sông Mê Kông. Từ diễn biến thực tiễn, việc sống chung, thích ứng
lâu dài với hạn, mặn cần được tính tới, thay vì các giải pháp ngăn mặn một cách
quá cực đoan, trái quy luật.
Không
khó dự báo
Có bằng chứng cho
thấy, chuỗi các đập nước đầu nguồn, dự án chuyển nước dòng chính sông Mê Kông
tuy không làm mất đi lượng nước quá lớn, nhưng đã làm trầm trọng hơn chất lượng
tài nguyên nước vùng hạ lưu. Các công trình tác động làm thay đổi quy luật tự nhiên
của dòng sông theo hướng tiêu cực, khắc nghiệt. Đặc biệt, các đập nước đã làm
suy giảm lượng phù sa, chặn lối di cư và sinh sản tự nhiên của các loài thủy
sản đa dạng của sông Mê Kông.
Miền Tây là cửa ngõ ra biển, chịu ảnh
hưởng trực tiếp trong mối quan hệ sông Mê Kông và biển Đông, biển Tây, nên chịu
tác động tiêu cực lớn nhất. Mùa lũ phù sa ít, còn mùa khô sông cạn, nước mặn
lấn sâu vào đất liền, còn kéo theo sụt lún, sạt lở. Cùng với biến đổi khí hậu,
nước biển dâng, chính con người đã góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng hạn mặn tại miền Tây.
Không còn là các dự
báo, thực tế mùa khô năm nay thời tiết đã cực đoan hơn trung bình nhiều năm,
nắng nóng kéo dài, hạn hán, xâm nhập mặn đang
diễn ra nghiêm trọng tại miền Tây. Các nghiên cứu khoa học đã chứng minh, lịch
sử hình thành, kiến tạo, phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long hàng triệu năm
qua là quá trình giao thoa sông – biển, và nó vẫn tiếp tục diễn ra. Con người phải
nương theo quy luật để chủ động thích ứng.
Thích
ứng để cùng chung sống
Từ diễn biến tình
hình thực tiễn, để chủ động ứng phó với cao điểm hạn, mặn
năm nay, các ngành, địa phương có thể nghiên cứu thực hiện 3 yêu cầu, 5 nhóm
giải pháp.
Về yêu cầu, cần
nhận thức, tư duy chủ động thích ứng phải trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt,
chỉ huy mọi hành động. Bài toán cân bằng tổng thể, yêu cầu “chi phí - lợi ích”
và nguyên tắc “không hối tiếc” cần được đặt ra khi đầu tư công trình. Đầu
tư xây dựng trụ cột kinh tế vùng, cùng với
khoa học công nghệ, tài chính để thích ứng với biến đổi khí hậu, gắn với con
người để không ai bị bỏ lại phía sau. Đặc biệt, phải tăng cường liên kết, phối
hợp liên vùng, liên ngành cùng hành động, thiết lập và vận hành thể chế vùng có
tính đại diện và trách nhiệm.
Cùng đó, khu vực
miền Tây có thể tổ chức thực hiện tốt 5 nhóm giải pháp trước mắt và lâu dài.
Trước tiên, cần giải pháp đo, công bố và cập nhật thường xuyên bản đồ hạn mặn
để người dân ai cũng tiếp cận được, nhằm chủ động biết và ứng phó từ sản xuất
tới sinh hoạt. Các địa phương chủ động điều tiết hệ thống thủy lợi theo cơ chế
vận hành nghiêm ngặt, phù hợp mức độ hạn, mặn. Hoàn thiện, đưa vào sử dụng các
công trình đầu tư theo đúng tiến độ, các dự án trữ nước, đảm bảo nước cho sản
xuất và sinh hoạt của người dân.
Không phòng, chống hạn mặn một cách cực đoan cho tất cả các địa phương, các vùng. Cần dựa vào yêu cầu, ưu tiên phát triển và điều kiện thực tế từng nơi để trồng trọt, chăn nuôi phù hợp. Trong đó, cần tính đến đặc điểm riêng của từng vùng mặn, ngọt, lợ của vùng đồng bằng. Tăng cường hợp tác quốc tế, tận dụng các định chế của Ủy hội sông Mê Kông và các nước có liên quan đến vấn đề nước xuyên biên giới, để bảo vệ lợi ích quốc gia. Về dài hạn, có lộ trình, bước đi phù hợp, đồng bộ trên nhiều lĩnh vực. Cần xem hạn mặn là đặc tính chu kỳ và đột xuất để xây dựng các kịch bản phát triển kinh tế, tổ chức dân cư cho phù hợp.
Những giải pháp
công trình rất cần, nhưng các giải pháp phi công trình cũng không thể thể
thiếu. Chính quyền và người dân không thể ngồi chờ, nhưng cũng không nên đổ
tiền vào các công trình cục bộ. Với nền đất phù sa yếu, khi mặt nước thấp sẽ
kéo theo sạt lở, sụt lún. Nếu ngăn nước mặn bằng các cửa cống đóng chặn trong
thời gian quá dài, mực nước trong các sông, kênh rạch sụt giảm, sạt lở, mất đất
sẽ khó tránh khỏi - điều trước đây ít xảy ra khi nước ngọt giảm sẽ có nước mặn
bù vào. Do đó, bên cạnh nước ngọt, cần xem nước lợ, mặn cũng là tài nguyên phát
triển kinh tế biển, ven biển, tránh ngăn mặn thô bạo, cần thích ứng phù hợp.
Nhìn nước ngọt từ
hệ thống sông Cửu Long đổ ra biển Đông, biển Tây là “phí của trời cho”, nhưng
nước sông ra biển là hợp với tự nhiên, các dòng sông luôn tìm đường ra biển.
Nước ngọt chảy ra biển vừa tải dinh dưỡng, thức ăn, cân bằng nhiệt độ, tạo môi
trường đa dạng sinh học cho nhiều loài thủy, hải sản phát triển. Con số thống
kê cho thấy, dù bờ biển miền Tây chiếm chưa đến 1/4 bờ biển quốc gia, nhưng sản
lượng thủy sản đánh bắt hơn tất cả các vùng miền cả nước gộp lại. Có người so
sánh bờ biển nước Úc dài gấp 40 lần bờ biển Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng do
điều kiện tự nhiên phần lớn sa mạc liền biển, không có mối lương duyên sông -
biển, nên sản lượng đánh bắt cá hàng năm của nước này chỉ ngang bằng một tỉnh
của miền Tây.
|
||
|
Thích nghi với hạn,
mặn, phát triển kinh tế ven biển, kinh tế biển xanh phù hợp chính là bước
chuyển dịch căn bản để vùng đất phù sa vượt qua khỏi cái bóng của nông nghiệp
lúa nước truyền thống từ ngàn đời, hướng đến mục tiêu an toàn, thịnh vượng
trong tương lai.
Ngày
27/3/2024, Báo Tiền Phong với sự đồng hành của Viện Nghiên cứu Biến đổi khí
hậu, Trường Đại học Cần Thơ tổ chức “Hội thảo Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng
bằng sông Cửu Long”.
Hội
thảo có sự tham dự của đại diện Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT; lãnh đạo và
chuyên gia Trường Đại học Cần Thơ; các chuyên gia độc lập về môi trường, biến
đổi khí hậu, trồng trọt, nước sạch; đại diện sở ngành các tỉnh đang chịu tác
động bởi hạn, mặn gồm: Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Cà
Mau, Kiên Giang; đại diện lãnh đạo chủ đầu tư, doanh nghiệp trong lĩnh vực thuỷ
lợi, nước sạch.
Hội
thảo sẽ được trực tiếp và trực tuyến:
Trực
tiếp: 8h30 ngày 27/3/2024, tại Trường Đại học Cần Thơ – Đường 3 tháng 2, Q.
Ninh Kiều, TP. Cần Thơ.
Trực
tuyến trên tienphong.vn; fanpage Báo Tiền Phong.
Nhận xét
Đăng nhận xét