Chuyển đến nội dung chính

Đất chín Rồng: Đầu năm bàn chuyện làm ăn lớn

TRẦN HỮU HIỆP
Lũ đồng bằng và cuộc mưu sinh
Dân gian có câu: ăn Tết, chơi Tết, vui Tết. Nhưng đó chỉ là lúc "xả hơi” của mấy ngày đầu năm, còn cái gốc lâu dài quanh năm vẫn là chuyện "làm ăn”. Cho nên, bên cạnh những câu chúc nhiều phúc, đa lộc, trường thọ, người ta hay chúc nhau "ăn nên, làm ra, phát đạt, phát tài”. Nếu ví ĐBSCL như ngôi nhà chung, thì "liên kết vùng”, "cánh đồng mẫu lớn”, "chung tay xây dựng nông thôn mới” đang là xu hướng ngày càng được khẳng định để 13 tỉnh, thành cùng chung vai xây dựng ĐBSCL ngày càng phát triển.

Nhớ "Năm Thìn bão lụt” để "vượt lên đỉnh lũ”
"Năm Thìn bão lụt” là trận bão lũ kèm sóng thần dữ dội tàn phá khắp Nam Bộ, mà đỉnh điểm của nó diễn ra vào ngày 1-5-1904 (nhằm ngày 16 tháng 3 năm Giáp Thìn) cách đây 108 năm. Những nơi bị thiệt hại nặng nhất là Gò Công, Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn, Gia Định và dọc theo vùng duyên hải, ảnh hưởng đến tận Campuchia. Nhiều làng gần bờ biển Tây Nam Bộ bị sóng cao đến 4-5m cuốn ra biển. Theo sách Sài Gòn Gia Định xưa - Tư liệu và hình ảnh (tr.79), thì chỉ riêng trận sóng thần này đã làm chết khoảng 5.000 người ở Gò Công và vùng lân cận; còn theo "dân gian, truyền miệng”, thì miệt Gò Công, Tân An (bao gồm Tiền Giang, Long An và một phần TP HCM hiện nay) số người chết khoảng "một muôn hai” (tức khoảng 12.000 người). Ở ĐBSCL còn xảy ra 2 trận lụt lớn "năm Thìn” khác. Đó là trận lụt năm Nhâm Thìn 1952 và đặc biệt là lũ năm Canh Thìn 2000 được coi là một trận lụt lịch sử, lớn nhất trong vòng 87 năm qua. Theo thống kê của Trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia, có 539 người chết, 212 người bị thương, hơn 890 ngàn căn nhà, gần 14 ngàn phòng học, 383 cơ sở y tế bị ngập trong nước, hơn 62.000 hộ dân phải di dời nhà ở, hơn nửa triệu người phải cứu trợ khẩn cấp, 80 vạn học sinh phải nghỉ học; hơn 224.000 ha lúa, gần 86.000 ha hoa màu, cây ăn trái, cây công nghiệp; hơn 14.000 ha nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại ... Ước tổng thiệt hại ở ĐBSCL trong năm 2000 khoảng 4.626 tỉ đồng.
Nhắc chuyện "năm Thìn bão lụt” ngẫm chuyện nay, mai. ĐBSCL từ chống lũ ở thập niên 1980 trở về trước, thực tiễn đã dạy người dân kinh nghiệm "né lũ” rồi hình thành chủ trương và cách làm thể hiện "ý Đảng, lòng dân” trong việc "chung sống với lũ”. Chương trình xây dựng "Xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ ĐBSCL giai đoạn 1” và nhiều chương trình đầu tư giao thông, thủy lợi, trường học, ... là một minh chứng. Vượt lên trên một chương trình kinh tế - xã hội, xây dựng hơn 1.000 cụm, tuyến dân cư với hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ còn mang đậm tính nhân văn, đã bố trí chỗ ở ổn định, làm ăn, sinh sống cho hơn 200 ngàn dân vùng ngập lũ – một cuộc "di dân tại chỗ và tái định cư lớn” chưa từng có trong lịch sử vùng đất này đã diễn ra thành công. Cơn lũ lớn năm 2011 vừa qua ở ĐBSCL như liều "thuốc thử” để đánh giá kết quả những nỗ lực của hơn một thập niên đầu tư xây dựng, củng cố triết lý "sống chung với lũ” đã được hình thành bằng chính mồ hôi, nước mắt và máu của con người vùng đất này. Hơn thế, là cuộc tập dượt bước đầu trước yêu cầu "thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng” – một thách thức toàn cầu đang hiển hiện ngày càng rõ ở vùng đất Chín Rồng. Năm 2011 đi qua ghi thêm kỳ tích cho hạt gạo và người làm ra lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long; không chỉ là cột mốc lịch sử của sản lượng xuất khẩu 7,2 triệu tấn gạo, cung cấp 100% sản lượng xuất khẩu gạo của cả nước, chiếm hơn 20% lượng gạo thương mại toàn thế giới, mà còn khẳng định tư thế của "hạt gạo đồng bằng vượt lên đỉnh lũ”.
"Hai Lúa” thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu
Vùng châu thổ Cửu Long, từ cây lúa ma, lúa nổi, lúa trời, lúa nước đến lúa "chất lượng cao”; từ lúa 1 vụ đến 2 vụ, 3 vụ và ngày nay là chuỗi giá trị lúa gạo từ "cánh đồng mẫu lớn” bạt ngàn ra thị trường thế giới; từ lúa "để ăn” đến lúa hàng hoá đi khắp năm châu, đại diện cho cường quốc xuất khẩu gạo hàng đầu. Lúa gạo đất Chín Rồng đã tạo ra kỳ tích bằng đường bay của con rồng Châu Á: Từ vùng trũng phèn Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, từ những cánh đồng phù sa ven sông Tiền, sông Hậu, vượt lên hạn hán, xâm nhập mặn, triều cường và những cơn lũ dữ để chiếm ngôi vị á quân xuất khẩu gạo thế giới. Năm châu ngắm nhìn hạt gạo đồng bằng đầy ngưỡng mộ và nó thực sự xứng đáng được đặt vào vị trí trang trọng nhất trong cuộc chiến bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu.
Thực tế đã hiển hiện "kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng” do các nhà khoa học dự báo là có thật, mà ĐBSCL là một "điểm nóng” trên thế giới. Những người hoạch định chính sách, chiến lược và nhà khoa học phải có tầm nhìn, tính đến những mục tiêu ứng phó dài hạn với nhiều giải pháp đồng bộ. Những người nông dân ĐBSCL ngày nay không chỉ "một nắng, hai sương” trên đồng ruộng, mà còn là bạn đồng hành với nhà khoa học, họ không thể không biết đến "thách thức toàn cầu”. Song, như cha ông xưa "mang gươm đi mở cõi”, người nông dân ngày nay vẫn với tư thế bình tĩnh để "thích ứng, thích nghi”: không sợ hãi, không lùi bước và chắc chắn sẽ không có một cuộc di dân chạy khỏi vùng lũ. Họ vẫn phải sống, con em phải đi học, vùng đất này vẫn tiếp tục được đầu tư phát triển. Bằng kinh nghiệm sống, sức sáng tạo, người đồng bằng đã hình thành tư duy từ "chống lũ”, "né lũ”, đến "sống chung với lũ”, "vượt lên đỉnh lũ”.
Chuyện năm Thìn bão lụt xưa như một ký ức động viên người ĐBSCL ngày nay vượt qua gian khó, vượt lên đỉnh lũ bằng thế rồng bay.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...