Trần Hữu Hiệp
Đột phá về năng suất, sản lượng và xuất khẩu
Con đường lúa gạo tại Festival lúa gạo VN lần II - Sóc Trăng 2011 được ghi nhận vào Sách kỷ lục Việt Nam
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra 2 Chương trình lớn thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là “Chương trình lương thực” và “Chương trình xuất khẩu” mà kết quả của nó đều ghi đậm sự đóng góp to lớn của ngành sản xuất lúa gạo ĐBSCL. Từ một quốc gia nhiều năm thiếu lương thực, chỉ sau 3 năm đổi mới, năm 1989, nước ta đã đảm bảo được an ninh lương thực trong nước và bắt đầu trở lại tham gia thị trường gạo quốc tế để giữ vững vị trí cường quốc xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới, chiếm hơn 20% lượng gạo thương mại toàn cầu và đang đứng trước cơ hội lịch sử vượt qua người Thái với hơn 7 triệu tấn gạo xuất khẩu dự báo trong năm nay. Tổng sản lượng lúa của cả nước tăng từ 19,2 triệu tấn năm 1990 lên 41,6 triệu tấn năm 2010 và 22 năm qua, nước ta đã xuất khẩu hơn 75 triệu tấn gạo, trị giá 23 tỷ USD. Đất nước đã chuyển từ thiếu gạo trong thập kỷ 80 sang dư thừa lần lượt 3 triệu tấn, 5 triệu tấn và 8 triệu tấn gạo vào các năm 1990, 2000 và 2010. Nếu như ở năm 1990, lượng cung dư thừa tương đương với 28% lượng gạo “sẵn có”, thì đến năm 2010, tỷ lệ này đã là 39%; tỷ lệ gạo xuất khẩu trong tổng số gạo “sẵn có” cũng tăng từ 16% lên 32% (nguồn: Báo cáo “An ninh lương thực ở Việt Nam và chuỗi giá trị lúa gạo”, Nhóm chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới, năm 2011).
Trong kỳ tích đó, vùng đất Chín Rồng nổi lên, giữ vai trò quyết định. Chỉ sau 2 thập niên, sản lượng lúa vùng châu thổ này đã được nhân lên hơn gấp đôi, từ 9,48 triệu năm 1990 lên 21,6 triệu tấn năm 2010, chiếm hơn 50% sản lượng và 90% kim ngạch xuất khẩu gạo hàng năm của cả nước; năng suất tăng từ 3,3 tấn/ha năm 1990 lên khoảng 5,5 tấn/ha hiện nay, riêng vụ đông xuân, nhiều nơi trong vùng đạt 7 tấn/ha. “Câu chuyện thành công” của ngành lúa gạo Việt Nam mà “Vựa lúa” Miền Tây là chỗ dựa đã góp phần rất quan trọng trong thế chuyển từ một quốc gia thu nhập thấp sang một quốc gia có thu nhập trung bình của nước ta hiện nay.
Đột phá về năng suất, sản lượng và xuất khẩu
Con đường lúa gạo tại Festival lúa gạo VN lần II - Sóc Trăng 2011 được ghi nhận vào Sách kỷ lục Việt Nam
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra 2 Chương trình lớn thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là “Chương trình lương thực” và “Chương trình xuất khẩu” mà kết quả của nó đều ghi đậm sự đóng góp to lớn của ngành sản xuất lúa gạo ĐBSCL. Từ một quốc gia nhiều năm thiếu lương thực, chỉ sau 3 năm đổi mới, năm 1989, nước ta đã đảm bảo được an ninh lương thực trong nước và bắt đầu trở lại tham gia thị trường gạo quốc tế để giữ vững vị trí cường quốc xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới, chiếm hơn 20% lượng gạo thương mại toàn cầu và đang đứng trước cơ hội lịch sử vượt qua người Thái với hơn 7 triệu tấn gạo xuất khẩu dự báo trong năm nay. Tổng sản lượng lúa của cả nước tăng từ 19,2 triệu tấn năm 1990 lên 41,6 triệu tấn năm 2010 và 22 năm qua, nước ta đã xuất khẩu hơn 75 triệu tấn gạo, trị giá 23 tỷ USD. Đất nước đã chuyển từ thiếu gạo trong thập kỷ 80 sang dư thừa lần lượt 3 triệu tấn, 5 triệu tấn và 8 triệu tấn gạo vào các năm 1990, 2000 và 2010. Nếu như ở năm 1990, lượng cung dư thừa tương đương với 28% lượng gạo “sẵn có”, thì đến năm 2010, tỷ lệ này đã là 39%; tỷ lệ gạo xuất khẩu trong tổng số gạo “sẵn có” cũng tăng từ 16% lên 32% (nguồn: Báo cáo “An ninh lương thực ở Việt Nam và chuỗi giá trị lúa gạo”, Nhóm chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới, năm 2011).
Trong kỳ tích đó, vùng đất Chín Rồng nổi lên, giữ vai trò quyết định. Chỉ sau 2 thập niên, sản lượng lúa vùng châu thổ này đã được nhân lên hơn gấp đôi, từ 9,48 triệu năm 1990 lên 21,6 triệu tấn năm 2010, chiếm hơn 50% sản lượng và 90% kim ngạch xuất khẩu gạo hàng năm của cả nước; năng suất tăng từ 3,3 tấn/ha năm 1990 lên khoảng 5,5 tấn/ha hiện nay, riêng vụ đông xuân, nhiều nơi trong vùng đạt 7 tấn/ha. “Câu chuyện thành công” của ngành lúa gạo Việt Nam mà “Vựa lúa” Miền Tây là chỗ dựa đã góp phần rất quan trọng trong thế chuyển từ một quốc gia thu nhập thấp sang một quốc gia có thu nhập trung bình của nước ta hiện nay.
Từ gạo ăn đến gạo chợ
“Lúa gạo có vai trò rất quan trọng, hiện đang nuôi sống hơn một nửa dân số thế giới, và càng quan trọng hơn đối với các nước châu Á - nơi sản xuất và tiêu dùng lúa gạo chủ yếu của thế giới, nơi chiếm hơn 60% số người thiếu đói hiện nay. Lúa gạo còn có ý nghĩa về nhân văn và lịch sử đối với các quốc gia trồng lúa, tạo nên các nền văn minh lúa nước có lịch sử hàng nghìn năm” – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, phát biểu khai mạc Lúa gạo quốc tế lần thứ 3 tổ chức tại Hà Nội 11/2010
|
Thành tựu của công nghệ sinh học sản xuất giống lúa mới thích ứng với biến đổi thời tiết, dịch bệnh; trình độ ứng dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong canh tác của nông dân được nâng lên với hiệu quả đáng kể của “4 đúng”, “3 giảm, 3 tăng”, “5 giảm, 1 phải”; cơ giới hóa trong sản xuất, thu hoạch – sau thu hoạch, tồn trữ, chế biến, tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa như những thành công bước đầu của “Cánh đồng mẫu lớn” và nhiều chính sách tác động của Nhà nước, kết quả đầu tư hạ tầng thủy lợi, kho chứa, cộng với sự nỗ lực và sức sáng tạo của nông dân ... đã nâng cao vị thế hạt gạo đồng bằng, đưa nó đi nhanh hơn trên con đường ngày càng tiệm cận với thị trường, làm thay đổi đáng kể phương thức sản xuất lúa, nâng cao giá trị hạt gạo ĐBSCL từ “để ăn” (an ninh lương thực) là chủ yếu sang “để bán” (xuất khẩu và tiêu thụ nội địa), từ tư duy sản xuất được nhiều lúa gạo của người nông dân sang làm ra nhiều giá trị-lợi nhuận từ lúa gạo của những “doanh nhân nông nghiệp”.
Khi sản xuất gạo liên tục tăng, vượt xa nhu cầu tiêu dùng trong nước, phần lớn sản lượng gia tăng trong 2 thập kỷ qua đã được xuất ra nước ngoài theo hai kênh: thương mại và giao dịch chính phủ (G2G). Trong đó, khoảng 1/3 sản lượng quốc gia và 70% sản lượng của ĐBSCL đã được xuất khẩu. Ở ĐBSCL đã hình thành những vùng nguyên liệu chuyên canh lúa cho xuất khẩu mà một số nghiên cứu gọi là “vành đai lúa” hay “Vùng lõi” sản xuất lúa hàng hóa, tập trung ở khoảng 30 huyện thuộc 3 tỉnh trọng điểm là An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp và một phần ở các tỉnh còn lại. Theo nghiên cứu của Nhóm chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới nêu trên, thì chỉ khoảng 20% người trồng lúa ở ĐBSCL đã tạo ra 63% thặng dư sản lượng trên thị trường. Trong những năm đầu thập kỷ 2000, khoảng 40% sản lượng lúa của ĐBSCL đã được xuất khẩu. Hai năm gần đây, tỷ trọng này chiếm khoảng 65-70%. Đây quả là một thay đổi mạnh mẽ từ xu hướng “gạo ăn” sang “gạo chợ”. Xu hướng này cần được sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa, sự tiếp cận đa ngành, mà trước tiên là hiện đại hóa ngành sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL gắn với thực hiện Tam Nông và xây dựng nông thôn mới.
Khi sản xuất gạo liên tục tăng, vượt xa nhu cầu tiêu dùng trong nước, phần lớn sản lượng gia tăng trong 2 thập kỷ qua đã được xuất ra nước ngoài theo hai kênh: thương mại và giao dịch chính phủ (G2G). Trong đó, khoảng 1/3 sản lượng quốc gia và 70% sản lượng của ĐBSCL đã được xuất khẩu. Ở ĐBSCL đã hình thành những vùng nguyên liệu chuyên canh lúa cho xuất khẩu mà một số nghiên cứu gọi là “vành đai lúa” hay “Vùng lõi” sản xuất lúa hàng hóa, tập trung ở khoảng 30 huyện thuộc 3 tỉnh trọng điểm là An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp và một phần ở các tỉnh còn lại. Theo nghiên cứu của Nhóm chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới nêu trên, thì chỉ khoảng 20% người trồng lúa ở ĐBSCL đã tạo ra 63% thặng dư sản lượng trên thị trường. Trong những năm đầu thập kỷ 2000, khoảng 40% sản lượng lúa của ĐBSCL đã được xuất khẩu. Hai năm gần đây, tỷ trọng này chiếm khoảng 65-70%. Đây quả là một thay đổi mạnh mẽ từ xu hướng “gạo ăn” sang “gạo chợ”. Xu hướng này cần được sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa, sự tiếp cận đa ngành, mà trước tiên là hiện đại hóa ngành sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL gắn với thực hiện Tam Nông và xây dựng nông thôn mới.
Nhận xét
Đăng nhận xét