Chuyển đến nội dung chính

Từ “Kho báu” đến “Chìa khóa” mở cửa du lịch đất Chín Rồng

Từ “Kho báu” đến “Chìa khóa” mở cửa du lịch đất Chín Rồng
Hội đua bò ở Tri Tôn, An Giang
Đua bò ở ĐBSCL, hoạt động hấp dẫn du khách. (Ảnh: PV)
(DĐĐT) Tiềm năng du lịch Tây Nam Bộ được ví như một kho báu, nhưng chưa được đầu tư đúng mức để khai thác có hiệu quả.
Đề án Phát triển du lịch ĐBSCL đến năm 2020 được Bộ VHTTDL phê duyệt xác định mục tiêu biến vùng sông nước Tây Nam Bộ - cửa ngõ ra biển Đông của dòng Mê Kông huyền thoại thành điểm đến sôi động, hấp dẫn với những sản phẩm đặc thù, mở ra khả năng kết nối nội vùng, liên vùng, liên quốc gia và quốc tế để trở thành một trong những trung tâm du lịch, dịch vụ ẩm thực lớn trên nền sông nước, biển đảo độc đáo, quy mô quốc gia và tầm thế giới.
Tầm nhìn chiến lược đã vạch rõ vị thế du lịch đồng bằng, nhưng để vào cuộc chơi chung, đất Chín Rồng phải tìm ra cách làm và bước đi phù hợp. Tầm nhìn chiến lược đã vạch rõ vị thế du lịch đồng bằng, nhưng để đạt được kỳ vọng, mở cửa « Kho báu », phải tìm ra « Chìa khóa » bằng các giải pháp đồng bộ và bước đi phù hợp.
« Kho báu » từ thiên nhiên
Với đặc thù miệt vườn sông nước, hệ thống kênh rạch dài hơn 28.000km,là vùng duy nhất trong nước vừa giáp biển Đông, vừa giáp biển Tây với bờ biển dài hơn 750km, có các đảo nổi tiếng như Phú Quốc được ví như một Singapore của Việt Nam, có hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển độc đáo.
ĐBSCL là vùng đất giàu tiềm năng du lịch, không chỉ về vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là kho tàng văn hóa giàu bản sắc, có thể khai thác phát triển nhiều loại hình, từ du lịch sinh thái miệt vườn, cảnh quan sông nước, môi trường, bảo tồn thiên nhiên, du lịch nghiên cứu – nghỉ dưỡng, văn hóa, lễ hội - làng nghề truyền thống... đến du lịch biển đảo chất lượng cao và có nhiều khả năng kết nối tour, tuyến với TP.HCM, các vùng, miền trong nước, hợp tác quốc tế với các nước tiểu vùng sông Mekong.
Chảy qua 6 nước, dòng Mekong huyền thoại mang theo những giá trị kinh tế, lịch sử, văn hóa, thiên nhiên nhiều màu sắc, đã kết nối một không gian du lịch kỳ bí. Nét hoang sơ của mảnh đất Triệu Voi, sự bí ẩn của xứ sở những ngôi đền cổ tích Myanmar, sự kỳ vĩ của đất nước Chùa Tháp và một dãy đồng bằng của đất Chín Rồng với nền “văn minh sông nước, miệt vườn” lại có núi non, biển đảo hấp dẫn tạo nên sự đa dạng, hấp dẫn, giàu sắc thái cho những tour du lịch “Bốn quốc gia – Một điểm đến”.
Liên kết vùng – mệnh lệnh của phát triển
Liên kết vùng đang được đặt ra như mệnh lệnh của sự phát triển du lịch vùng đất Chín Rồng. Các tỉnh,thành trong vùng đã nhận thức được liên kết vùng là chìa khóa phát triển; đã ký kết hợp tác với nhau và với TPHCM thực hiện nhiều chương trình hợp tác du lịch, trao đổi thông tin, kinh nghiệm quản lý, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, phối hợp xúc tiến, quảng bá du lịch chung.
Hiệp hội Du lịch ĐBSCL được thành lập đã có nhiều nỗ lực thúc đẩy sự liên kết này; nhiều địa phương và các bộ, ngành đã có tiếng nói chung, thông qua nhiều hoạt động như Diễn đàn Hợp tác kinh tế ĐBSCL hàng năm, các hội nghị, hội thảo xúc tiến du lịch vùng thay cho các hoạt động riêng lẻ, chồng chéo của các tỉnh, thành.
Nhiều người đã lên tiếng, Đề án Phát triển du lịch ĐBSCL đến năm 2020cũng đã vạch hướng, nhưng hành động cụ thể còn rời rạc; phát triển du lịch vùng chỉ mới thể hiện ở tầm nhìn, sự cam kết, nhưng còn thiếu nhiều hành động cụ thể để hiện thực hóa.
Cách làm du lịch vẫn còn mang nặng tính tự phát, thiếu chuyên nghiệp. Các sản phẩm du lịch chủ yếu dựa vào thiên nhiên, khai thác những gì sẵn có mà thiếu sự đầu tư dài hạn, thiếu sự liên kết chặt chẽ. Các liên kết, hợp tác diễn ra chủ yếu giữa chính quyền và cơ quan quản lý, hoạt động thực sự giữa các doanh nghiệp du lịch chưa nhiều. Thương hiệu du lịch ĐBSCL và từng địa phương chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.
Nhu cầu bức xúc hiện nay là cần có những cơ chế, chính sách tốt để thúc đẩy liên kết, có sự “phân công, phân vai” rõ ràng giữa các địa phương trong vùng, cộng hưởng với sức mạnh tổng hợp của cộng đồng doanh nghiệp, đầu tư có mục tiêu ưu tiên để phát triển hạ tầng du lịch, từ hạ tầng giao thông, cơ sở lưu trú đến các điểm tham quan du lịch tạo sức hấp dẫn cấp vùng, cấp quốc gia, trở thành điểm đến trong chuỗi liên hoàn với các nước trong khu vực.
Một chương trình liên kết vùng nhằm phát triển du lịch dựa trên nền tảng «lợi thế dùng chung» sớm được triển khai trong thực tế là mong ước lớn lao của các tỉnh, thành. Đầu tư phát triển hạ tầng du lịch và nguồn nhân lực du lịch đang được xem là 2 khâu yếu nhất, cần dồn tâm sức nhiều để tìm ra chìa khóa mở cửa kho báu du lịch.
Ở ĐBSCL chưa có những công trình du lịch qui mô lớn được đầu tư xứng tầm, có người so sánh doanh thu của khách sạn Rex ở thành phố Hồ Chí Minh hàng năm tương đương với 40% doanh thu dịch vụ của toàn bộ hệ thống khách sạn ở ĐBSCL để chứng minh qui mô đầu tư khai thác "kho báu" du lịch ở đồng bằng tương xứng do thiếu liên kết, nguồn lực hạn chế.
Liên kết vùng không chỉ cho ĐBSCL, mà còn cho TP. Hồ Chí Minh, miền Đông Nam Bộ, kết nối liên vùng khác và là cơ sở tạo ra sức mạnh để tăng cường hợp tác du lịch trong Tiểu vùng sông Mekong mở rộng, hướng đến một thị trường chung trong ASEAN.
Thúc đẩy hợp tác quốc tế
Theo Hội đồng Lữ hành và du lịch thế giới, doanh thu dịch vụ du lịch các nước tiểu vùng sông Mekong năm 2010 đạt hơn 22,1 tỉ USD. Con số này chắc chắn sẽ được tăng cao hơn nữa nếu các nước trong khu vực sông Mekong tăng cường liên kết, khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch của mỗi nước, đồng thời tạo ra không gian du lịch sống động hơn với nhiều “sản phẩm dùng chung” như “Con đường di sản Mê Kông”, "Con đường tơ lụa" trên Vịnh Thái Lan, “Tam giác du lịch”.
Thương hiệu “Du lịch Mekong”hình thành như một điểm hấp dẫn trên bản đồ du lịch khu vực và thế giới. Để liên kết vùng, cần xúc tiến ngay các dự án du lịch cấp quốc gia trên địa bàn và lựa chọn một số khu, điểm du lịch chuyên đề quốc gia để làm hạt nhân, làm động lực phát triển và hội nhập với quốc tế. Chú trọng đầu tư đối với những dự án du lịch có khả năng phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, có sức cạnh tranh và đặc biệt cần quan tâm và có những cơ chế chính sách ưu tiên đầu tư ở những khu, điểm du.
Bên cạnh đầu tư trực tiếp trong du lịch, các ngành có liên quan như giao thông, công nghiệp, thương mại, nông nghiệp và phát triển nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, các công trình dịch vụ công cộng... cũng cần ưu tiên cho các dự án có tác động hỗ trợ phát triển du lịch.
 Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, để phát triển ĐBSCL, cần xây dựng một cơ chế phối hợp năng động và hiệu quả giữa các tỉnh, thành phố trong vùng và tăng cường hơn nữa sự hợp tác quốc tế với các nước thuộc tiểu vùng sông Mekong.
Vấn đề là cần nâng mối quan hệ hợp tác đó lên tầm cao mới, trên cơ sở lợi ích của các bên. Cần cụ thể hóa các thỏa thuận, cam kết trong khuôn khổ Ủy ban sông Mekong để có được một cơ chế hợp tác quốc gia theo vùng thật sự năng động và hiệu quả.
Chương trình phát triển du lịch “Bốn quốc gia - Một điểm đến”, du lịch ĐBSCL sẽ là nội dung quan trọng trong việc hình thành, phát triển “Hành lang kinh tế Mekong”. Hành lang kinh tế này dựa vào trục sông Mekong với lịch sử hình thành phát triển, gắn bó lâu đời các thế hệ cư dân 4 nước, đã từng tạo ra nền văn minh sông nước có nhiều nét tương đồng.
Nay trong xu thế hợp tác mới, với thế phát triển xuyên bán đảo Đông Dương ra Biển Đông, nối với tuyến hàng hải quốc tế Đông Tây (nơi có nhiều nền kinh tế lớn của thế giới) sẽ tạo thế và lực mới, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp truyền thống của các nước ven sông Mekong sang nền nông nghiệp hàng hóa, hiện đại.
Đó là phát triển thương mại quốc tế, công nghiệp dầu khí, công nghiệp đóng tàu, dịch vụ tàu biển và đánh bắt hải sản, phát triển giao thông thủy, bộ, xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp, hình thành các trung tâm phát triển trong vùng, mà du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn - là con đường đi đến một “thị trường chung ASEAN vào năm 2015”.
Trần Hữu Hiệp

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Định Dương Quốc Định  sinh năm 1967,

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em trong giấc mơ …”.   Nhớ Cần Thơ phố thời bao