Chuyển đến nội dung chính

LIÊN KẾT VÙNG - GIẢI PHÁP THIẾT THỰC TRONG NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÙNG ĐBSCL


Lúa thí nghiệm ở Viện lúa ĐBSCL - sản phẩm nghiên cứu khoa học. Ảnh: hiepcantho

(Tham luận tại Hội thảo khoa học “Liên kết bốn nhà (LKBN) – Giải pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long” do Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản phối hợp với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bến Tre tổ chức tại TP. Bến Tre ngày 26 -7 - 2011)
                                                                                                                           Trần Hữu Hiệp
[1]
TÓM TẮT:
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, Phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), tăng cường liên kết dọc – ngang, khai thác tốt hơn lợi thế so sánh sẵn có, đồng thời tìm cách chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, tạo lập lợi thế cạnh tranh mới của vùng trong từng giai đoạn phát triển. Liên kết vùng khắc phục tình trạng không gian kinh tế bị chia cắt theo địa giới hành chính, tình trạng “mạnh ai nấy làm”, “đầu tư theo phong trào”, tạo điều kiện thúc đẩy “Liên kết bốn nhà”. Liên kết vùng hướng trọng tâm vào việc phát huy thế mạnh của các sản phẩm chủ lực, đặc thù của vùng như lúa gạo, trái cây, thủy sản (tôm, cá tra); tạo sự đồng thuận chỉ đạo triển khai thực hiện một cách đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế vùng, góp phần thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước thời kỳ 2011 – 2020, xây dựng nông thôn mới, nâng cao vai trò, vị thế của người nông dân ĐBSCL – tác giả chính của “công trình” đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực lên cường quốc xuất khẩu gạo thứ 2 trên cả nước.
Tham luận này trình bày phương pháp tiếp cận, một số vấn đề nhìn từ thực tiễn sôi động của nền kinh tế hàng hóa ở ĐBSCL. Từ đó, đề xuất những nội dung trọng tâm cần liên kết và các giải pháp thực hiện.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Liên kết vùng ĐBSCL gần đây được đề cập nhiều, ai cũng thấy cần thiết phải làm, nhưng liên kết cái gì? Ai làm? Thực thi ra sao? Cần cơ chế và điều kiện gì đẩ thực hiện liên kết pháttriển bền vững? Những vấn đề này cần được thống nhất và triển khai đồng bộ với cơ chế chỉ huy, vận hành hiệu quả là yêu cầu quan trọng đặt ra. Nhìn không gian phát triển dưới góc độ vùng, thì cần liên kết giữa các tỉnh với nhau trong qui hoạch, thực hiện qui hoạch, sự phân công nhiệm vụ của từng thành viên liên kết và vai trò “nhạc trưởng” trong từng “cụm ngành kinh tế liên hoàn”.

Trong thực tiễn thời gian qua, các Bộ, ngành Trung ương và địa phương trong vùng ĐBSCL đã bước đầu thực hiện liên kết trong qui hoạch vùng, như qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, qui hoạch xây dựng, qui hoạch cấp nước … vùng ĐBSCL, phê duyệt và thực hiện các đề án: phát triển du lịch vùng đến năm 20020, đề án phát triển thủy sản …; đầu tư có trọng điểm các chương trình hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục, đào tạo và dạy nghề, xây dựng cụm, tuyến dân cư và ở vùng ngập lũ … Đặc biệt, gần đây Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ cùng với Trường ĐH Cần Thơ, Viện lúa ĐBSCL và Viện Nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và 13 tỉnh, thành trong vùng xây dựng Đề án liên kết vùng ĐBSCL trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn với 5 dự án sản xuất và tiêu thụ: (1) Lúa gạo (2) Cây ăn trái (3) Thủy sản: tôm, cá tra (4) Đào tạo nghề cho nông dân phát triển sản xuất và tiêu thụ trên 3 sản phẩm chủ lực: lúa gạo, trái cây, thủy sản (5) Cơ chế, tổ chức và chính sách để phát triển các sản phẩm chủ lực và đào tạo nghề cho nông dân ĐBSCL. Thủ tướng Chính phủ đã thống nhất chủ trương khuyến khích việc liên kết vùng ĐBSCL, đảm bảo gắn kết được sự phát triển của từng lĩnh vực, từng địa phương với phát triển của toàn vùng, nhằm phát huy lợi thế, hiệu quả đầu tư của từng địa phương, từng lĩnh vực”.
[2] Song, từ “chủ trương” đến “hiện thực” là một quá trình đòi hỏi phải được quán triệt, chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ, sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả. Ban Chỉ đạo, điều phối đề án đang trình Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt đề án, phân bổ nguồn lực, tổ chức huy động các nguồn đầu tư, hình thành cơ chế tổ chức, vận hành đề án liên kết vùng một cách hiệu quả. Thực tiễn đang cần một cơ chế pháp lý rõ ràng trong liên kết, chỉ huy và phối hợp các nguồn lực phát triển, cơ chế quản trị cấp vùng. Theo Chương trình tổng thể Diễn đàn hợp tác kinh tế đồng bằng sông cửu Long năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ tổ chức hội thảo khoa học về “Cơ chế liên kết vùng ĐBSCL”, kết quả của Hội thảo sẽ được tập hợp, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xây dựng và ban hành khung pháp lý cho liên kết vùng.

2. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN:
- Vùng (region) là một khái niệm phổ biến, có thể được phân chia theo những cách thức khác nhau, nhưng không gian lãnh thổ và địa – kinh tế là tiêu chí quan trọng để phân vùng. Theo đó, sự hình thành và tồn tại của vùng kinh tế (economic region) là do yêu cầu phát triển KT-XH của mỗi quốc gia trong những giai đoạn nhất định
[3]. Theo cách phân vùng hiện nay, ĐBSCL bao gồm toàn bộ không gian lãnh thổ của 13 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm: TP. Cần Thơ trực thuộc Trung ương, các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL hình thành nên “Tứ giác động lực”, bao gồm: Cần Thơ – An Giang – Kiên Giang và Cà Mau. ĐBSCL có diện tích đất tự nhiên khoảng 3,96 triệu ha, chiếm khoảng 12% diện tích, 22,8% về dân số, là địa bàn rộng và đông dân cư đứng thứ 2 trong 6 vùng kinh tế của cả nước (chỉ sau ĐB sông Hồng). Hàng năm, vùng này đóng góp khoảng 27% vào GDP cả nước, là trung tâm lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản; trung tâm năng lượng lớn của cả nước với ba trung tâm điện lực Ô Môn, Cà Mau, Kiên Lương với tổng công suất khoảng 9.000 MW – 9.400 MW và cung cấp khí đốt từ các mỏ khí Tây Nam.

Việc hình thành các vùng kinh tế, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm (phía Bắc, miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam) đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế chung cả nước, đồng thời tạo liên kết giữa nội vùng và các vùng. Tuy nhiên, việc phân vùng kinh tế hiện nay còn tồn tại một số vấn đề cần quan tâm, ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách cũng như chỉ đạo phát triển vùng:

(1) Cách phân vùng kinh tế ở nước ta thời gian qua cũng như hiện nay chưa thống nhất, chủ yếu phục vụ yêu cầu chỉ đạo, định hướng chính sách và có ý nghĩa thống kê; việc phân vùng còn trùng lắp về địa bàn như trường hợp của 2 tỉnh Long An và Tiền Giang, vừa nằm trong vùng ĐBSCL vừa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Hà Nội, Hải Phòng vừa nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.

(2) Xét về cơ cấu kinh tế, các tỉnh, thành trong vùng ĐBSCL đều hướng theo một “Cơ cấu đẹp” - tăng công nghiệp, dịch vụ, giảm nông – lâm – ngư nghiệp. Kết quả là các địa phương trong vùng đều có cơ cấu kinh tế tương tự nhau hơn là dựa trên lợi thế chung (hợp tác) và khai thác lợi thế so sánh (đặc thù) của từng tỉnh. Dễ thấy nhất là tình trạng tỉnh nào cũng có khu, cụm công nghiệp, chợ đầu mối, nhà máy đường, hoặc đang có xu hướng “chạy đua” xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trung tâm giống. Tình trạng hiện nay là cấp tỉnh đang thực sự chi phối và quyết định sự phát triển kinh tế vùng. Do đó, kinh tế vùng ĐBSCL, mặc dù đang có nhiều lợi thế về sản phẩm mũi nhọn và các yếu tố địa - kinh tế khác nhưng chưa thể phát triển như mong muốn, đòi hỏi một cơ chế liên kết hợp tác thực sự hiệu quả. Theo đánh giá của Báo cáo “Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam” công bố 11-2010, thì “Đầu tư hạ tầng được dùng để bù đắp cho các tỉnh có tăng trưởng kém hơn chứ không phải nhằm tạo ra hiệu quả và tác động cao nhất có thể”. Điều đó cũng cho thấy, định hướng đầu tư hạ tầng đang nghiêng về góc độ “xã hội” hơn là “kinh tế”, nên trong điều kiện nguồn lực tài chính hạn hẹp, càng khó phát huy thế mạnh của địa phương và vùng. Theo TS. Trần Du Lịch
[4] “Đã đến lúc chúng ta cần xoá bỏ tư duy cơ cấu kinh tế tỉnh, tránh tình trạng đất đai là “bờ xôi ruộng mật”biến thành các KCN hoặc đô thị; thúc đẩy sự bố trí sản xuất và dân cư trên phạm vi các vùng kinh tế”

(3) Sự cạnh tranh giữa các tỉnh có thể phá vỡ qui hoạch vùng: Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình phi tập trung hóa, theo đó, chính quyền cấp tỉnh được “chuyển giao quyền” và có quyền chủ động hơn về qui hoạch và phân bổ các nguồn lực đầu tư trong phạm vi địa phương mình. Các tỉnh thường quan tâm đến 2 vấn đề: Một là, tranh thủ các nguồn lực (chủ yếu là phân bổ vốn đầu tư ngân sách từ Trung ương theo cơ chế “xin – cho”); hai là, làm thế nào để tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư bằng cơ chế chính sách của địa phương. Kết quả là, kế hoạch phát triển kinh tế của địa phương vẫn còn “tàn dự” của “kinh tế kế hoạch ” xưa, chưa thực sự theo kinh tế thị trường, định hướng của nhà nước; nhiều tỉnh gắn “mác năng động” đã “chạy đua khuyến khích” làm nảy sinh những câu chuyện tương tự như “ưu đãi đầu tư vượt rào” hay tỉnh nào cũng “đãi ngộ, thu hút nguồn nhân lực” dẫn đến việc đãi ngộ không còn ý nghĩa đặc thù, nó cũng giống như tình trạng tất cả đều có “quyền ưu tiên” nên dẫn đến “không ai có quyền ưu tiên cả”. Trong khi đó, hiện chưa có một cơ chế hành chính theo vùng nào chịu trách nhiệm điều phối sự phát triển vùng và quá trình “chuyển giao quyền” từ các Bộ, ngành Trung ương nhiều hơn cho các tỉnh (thẩm quyền quyết định, cấp phép đầu tư, ban hành cơ chế, chính sách ...). Một chính sách điều phối vùng (sát hợp hơn chính sách quốc gia) là cần thiết để điều phối vùng trong những tình trạng tương tự.

(4) Vùng kinh tế, trong đó có vùng ĐBSCL không phải là 1 đơn vị hành chính – kinh tế, việc phân bổ ngân sách, nguồn lực đầu tư cho vùng hoàn toàn do Trung ương đảm nhiệm. Theo Luật Ngân sách hiện hành và các qui định về lập kế hoạch ngân sách hàng năm, vùng không phải là cấp ngân sách; việc đầu tư cho vùng phụ thuộc vào sự đầu tư của Trung ương và các tỉnh, thành (chủ yếu là để phát triển địa phương, qua đó đóng góp cho vùng). Vì thế, vùng ĐBSCL không thể nào thực thi một cách “chủ động” các chương trình, kế hoạch, dự án đầu tư phát triển vùng. Nên không gian kinh tế vùng bị chia cắt và thu hẹp, sản phẩm thế mạnh của vùng chưa được “liên kết”, lợi thế so sánh của từng tỉnh chưa được phát huy mà còn cạnh tranh cục bộ lẫn nhau, chuỗi giá trị ngành hàng bị cắt khúc, đầu tư trùng lắp, suất đầu tư cao do không tận dụng được “lợi thế dùng chung” trên cơ sở phân công trong nội bộ vùng và liên vùng.

(5) Tổ chức quản trị vùng và cơ chế phối hợp còn nhiều hạn chế: là một trong 3 yếu tố quan trọng phát triển vùng, bao gồm: chính sách vùng, công cụ - nguồn lực tài chính và cơ chế quản lý phối hợp. Để phát triển kinh tế vùng, Trung ương Đảng, Chính phủ, các Bộ, ngành ban hành và hình thành hệ thống chủ trương, định hướng và chính sách phát triển vùng ĐBSCL qua việc ban hành các Nghị quyết, Chiến lược, Chương trình, Kế hoạch phát triển và qui hoạch vùng ĐBSCL. Nhưng việc tổ chức thực hiện nó hoàn toàn phụ thuộc vào các cơ quan Trung ương và địa phương. Những hoạt động tích cực gần đây của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ cũng chỉ là sự phối hợp kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện của các Bộ, ngành và địa phương trong 3 lĩnh vực đột phá của vùng như phát triển: giao thông, thủy lợi, giáo dục – đào tạo và dạy nghề, cụm tuyến dân cư vượt lũ, các công trình trọng điểm trên địa bàn vùng ... Do đó, việc hình thành một tổ chức chỉ đạo, quản lý điều hành cấp vùng đang là vấn đề cần được nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung trên cơ sở hoàn thiện một số mô hình hiện hữu như Ban Chỉ đạo điều phối vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL, một số hoạt động của BCĐ Tây Nam Bộ. Hoạt động của tổ chức này nên hướng vào việc điều phối, tập hợp được các dự án đang rải rác ở các Bộ, ngành, địa phương, có chức năng giám sát, đánh giá hiệu quả các dự án cấp vùng.

Từ những phân tích trên cho thấy, mặc dù đã có chủ trương định hướng và chính sách cơ bản về kinh tế vùng, Chính phủ đã ban hành các qui hoạch vùng ĐBSCL, cách tiếp cận và xu hướng “tư duy theo vùng” đang là hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế vùng và lãnh thổ, 4 vùng kinh tế trọng điểm đang được thành lập, các qui hoạch vùng ĐBSCL đã và đang được Thủ tướng Chính phủ ban hành, như: qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội, qui hoạch chung xây dựng, qui hoạch thủy lợi, qui hoạch giao thông, giáo dục-đào tạo và dạy nghề, qui hoạch vùng nuôi cá tra, basa; cac qui hoạch vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL (công nghệ thông tin và truyền thông, qui hoạch cấp nước, rác thải …). Tuy nhiên, để “hiện thực hóa qui hoạch” bằng các chương trình, dự án đầu tư phải được thông qua các đơn vị cấp Bộ hoặc cấp tỉnh làm chủ đầu tư, thì tình trạng chung là thường bị chia nhỏ cho các địa phương thực hiện như Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ ĐBSCL, Chương trình kiên cố hóa trường lớp học, một tuyến giao thông được “chia xẻ” đầu tư cho nhiều địa phương như đường nối Cần Thơ – Vị Thanh, tuyến Bốn Tổng – Một Ngàn, dự án thủy lợi Ô Môn – Xà No …thiếu một cơ chế chỉ huy, liên kết vùng hiệu quả.

3. NỘI DUNG & GIẢI PHÁP THỰC HIỆN LIÊN KẾT VÙNG ĐBSCL

Trên cơ sở kết quả quá trình phát triển sản xuất kinh doanh trong nhiều thập kỷ qua và những điều kiện tự nhiên của vùng ĐBSCL, có thể xác định một số sản phẩm mũi nhọn, tạo điều kiện hình thành và phát triển một số cụm liên kết (cluster) tiềm năng của vùng. Đó là lúa gạo, cây ăn trái, thủy sản và liên kết vùng trong đào tạo nghề cho nông dân để phát triển sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm này. Thực hiện liên kết vùng từ khâu qui hoạch, chỉ đạo thực hiện qui hoạch, sử dụng các nguồn lực đầu tư, ứng dụng tiến bộ khoa học từ khâu lai tạo, chọn giống, tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ lúa gạo, thủy sản, trái cây; phản hồi cơ chế, tổ chức và chính sách về liên kết vùng và liên kết “4 nhà” đến tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho cả vùng. Giải quyết “nút thắt” đất đai do tình trạng sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún bằng cách nghiên cứu ứng dụng mô hình Công ty cổ phần nông nghiệp, xây dựng những cánh đồng nguyên liệu, trang trại sản xuất thủy sản, nhà vườn, có điều kiện tổ chức sản xuất hàng hóa lớn. Qua đó, người nông dân góp vốn bằng quyền sử dụng đất, phá bờ ruộng, tăng diện tích canh tác từ 5-10% diện tích, giảm khoảng 50% chi phí bơm tưới tiêu, cơ giới hóa, gắn sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ.
3.1. Liên kết vùng phát triển sản xuất và tiêu thụ lúa gạo

ĐBSCL nổi lên không chỉ với vai trò là “vựa lúa” cả nước, “chén cơm châu Á” mà còn là vùng đầu tiên sản xuất lúa hàng hóa, chiếm lĩnh vị trí độc tôn trong xuất khẩu gạo cả nước qua nhiều thời kỳ, trong giai đoạn hiện nay và chắc chắn còn đảm trách vai trò quan trọng này trong tương lai. Hàng năm, vùng này sản xuất 55% sản lượng lương thực, cung cấp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu; chỉ riêng năm 2010, diện tích sản xuất lúa hơn 3,9 triệu ha, sản lượng hơn 21,5/23,5 triệu tấn lúa cả nước, xuất khẩu 6,8 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch hơn 3,23 tỉ USD.

Trong khi người nông dân ĐBSCL là tác giả của “công trình” đưa Việt Nam trở thành và giữ vững vị trí thứ 2 thế giới của một “cường quốc xuất khẩu gạo”, thì đời sống của họ lại luôn bị đe dọa bởi những yếu tố bất ổn định như giá cả, thời tiết, dịch bệnh,…. Thông qua cơ chế liên kết vùng, xây dựng chính sách ưu đãi tương xứng cho nông dân – “người lính” trên mặt trận “an ninh lương thực”, có sự phân biệt giữa người sản xuất lúa cho mục tiêu an ninh lương thực và người sản xuất lúa gạo cho mục tiêu thương mại. Hỗ trợ nghiên cứu giống lúa mới, nâng cao năng lực chế biến, bảo quản sau thu hoạch, đóng gói và thương hiệu gạo, đặc biệt là khâu xay xát và lưu trữ gạo trước khi đưa ra thị trường.

3.2. Liên kết vùng phát triển và tiêu thụ thủy sản

Kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2010 của cả nước đạt 4,82 tỷ USD, cùng với lúa gạo, thủy sản là 1 trong 11 mặt hàng của cả nước đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỉ USD; trong đó, đồng bằng sông Cửu Long là vùng nuôi trồng thủy sản lớn nhất nước với diện tích chiếm 70%, sản lượng chiếm 58%, tôm chiếm 80% và đóng góp trên 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Riêng cá tra, chỉ với 5.000 ha mặt nước nuôi, cho sản lượng 1,2 triệu tấn mỗi năm, xuất khẩu cá tra năm 2010 đạt 650 ngàn tấn, kim ngạch 1,4 tỉ USD. Nhiều năm qua, đặc biệt là từ năm 2000 trở lại đây, khi mà công nghệ sản xuất giống được phát triển thì nghề nuôi cá tra của ĐBSCL đã có bước phát triển nhảy vọt, nếu tính trong 10 năm qua (1997-2007) thì diện tích nuôi tăng khoảng 8 lần, sản lượng nuôi tăng 45 lần, sản lượng fillet xuất khẩu tăng 55 lần và kim ngạch xuất khẩu tăng 50 lần. Ở ĐBSCL đã hình thành các cụm nhà máy chế biến phát triển ở Sóc Trăng, Cà Mau, Hậu Giang, An Giang và Cần Thơ, đã hình thành mối liên kết giữa nghiên cứu – chủ động khoảng 40% nguồn nguyên liệu - chế biến – và xuất khẩu.

Tuy nhiên, việc phát triển nuôi trồng, khai thác thuỷ hải sản một cách tự phát quá nóng, thiếu đồng bộ; đầu tư cho phát triển còn thấp, chậm; cơ sở hạ tầng yếu kém, rõ nhất là ngành nuôi tôm, cá tra ĐBSCL.... Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành cụm liên kết thủy sản, cần chú ý một số vấn đề như: đảm bảo giống, phòng tránh dịch bệnh, tăng cường năng lực chế biến, kết nối chuỗi giá trị sản xuất – chế biến – tiêu thụ thủy sản.
3.3. Liên kết vùng phát triển sản xuất và tiêu thụ cây ăn quả
ĐBSCL là vùng có truyền thống trồng cây ăn trái với diện tích chiếm 38% và sản lượng chiếm 70%, lớn nhất cả nước, đã hình thành vùng chuyên canh cây ăn trái ở các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Đồp Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ; các HTX, nhà vườn đã ứng dụng ngày càng nhiều VietGap, GlobalGap; Viện Cây ăn quả Miền Nam cùng các Trung tâm giống đã có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu, chuyển giao giống, kỹ thuật canh tác, phòng trị bệnh cây trồng; đã hình thành bước đầu mối liên kết giữa nhà vườn – nhà khoa học – thương lái (chủ vựa, chành), doanh nghiệp, hiệp hội trái cây … trong các khâu nghiên cứu, sản xuất, tiêu thụ.
3.4. Đào tạo nghề cho nông dân ĐBSCL phát huy 3 sản phẩm mũi nhọn của vùng

Mục tiêu của dự án Đào tạo nghề cho nông dân ĐBSCL phát huy 3 sản phẩm mũi nhọn của vùng (lúa gạo, trái cây và thủy sản) là trong 10 năm (2011-2020) đào tạo và tư vấn nghề (chủ yếu là đào tạo máy cái) cho khoảng 30.000 lượt người và tư vấn nối kết doanh nghiệp với các cơ sở dạy nghề ở địa phương, xây dựng Trung Tâm Nghiên cứu và Đào tạo nghề nông thôn cho toàn vùng đặt tại Đại học Cần Thơ. Việc đào tạo nghề cho nông dân sẽ được lồng ghép chặt chẽ với đề án đào tạo nghề của các địa phương, hoạt động khuyến nông và các khóa đào tạo, huấn luyện chuyển giao công nghệ của Viện lúa ĐBSCL, Viện Cây ăn quả Miền Nam, Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL. Với việc phát huy vai trò các trung tâm đào tạo nghề cấp vùng trong việc cho ra đời các “máy cái” để đào tạo lại các kỹ năng nghề cho nông dân thật sự có nhu cầu và liên kết chặt chẽ các chương trình đào tạo nghề đang có xu hướng rãi ra ở các địa phương. Ngoài ra, một chủ trương lớn như vậy cũng rất cần được Chính phủ chọn ĐBSCL – từ những đặc điểm, yếu tố mang tính quyết định của vùng này – để làm điểm chỉ đạo. “Liên kết bốn nhà”, Xây dựng nông thôn mới vùng ĐBSCL cần được gắn kết chặt chẽ với liên kết vùng, tập trung 3 sản phẩm mũi nhọn và đào tạo nghề nông dân để có đủ kiến thức của “người sản xuất hàng hóa” trong nền kinh tế thị trường. Đây vừa là yêu cầu, sự cần thiết, vừa là giải pháp khắc phục “điểm yếu” vừa qua trong mối quan hệ liên kết bốn nhà thời gian qua.

4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

4.1. Liên kết vùng ĐBSCL là đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn sôi động của vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp lớn nhất nước, lực lượng nông dân đông đảo nhất và trình độ sản xuất hàng hóa nông nghiệp vào loại bậc nhất cả nước. Chủ chương liên kết vùng cần một cơ chế pháp lý rõ ràng và mạnh mẽ hơn là sự “khuyến khích” hay các hình thực ký kết hợp tác lỏng lẻo giữa chính quyền các tỉnh với nhau thời gian qua; cần gắn kết với quá trình xây dựng nông thôn mới ở ĐBSCL và tiếp tục thực hiện “Liên kết 4 nhà”.

4.2. Cần tiếp tục nghiên cứu hình thành tổ chức quản trị - điều hành cấp vùng phù hợp, đủ sức đảm đương và điều tiết các nhu cầu cấp vùng. Trước mắt cần nghiên cứu, hoàn thiện mô hình hoạt động của Ban Chỉ đạo điều phối Vùng kinh tế trọng điểm để thử nghiệm cho Chương trình liên kết vùng ĐBSCL.

4.3. Đề nghị Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách đặc thù thu hút đầu tư vào 3 sản phẩm mũi nhọn của vùng ĐBSCL, tập trung hoàn thiện CSHT kinh tế, khai thông các kênh tín dụng (vốn ngân sách, OAD, FDI, vốn doanh nghiệp tham gia và vốn tín dụng ngân hàng) và đào tạo nguồn nhân lực để phát triển các sản phẩm mũi nhọn này.
[5]


4.4. Tăng cường hơn nữa các hình thức liên kết, hợp tác theo nhu cầu và thực chất hơn các hình thức ký kết hợp tác kinh tế giữa chính quyền các tỉnh, thành trong vùng với nhau và với TP HCM thời gian quan chủ yếu mang tính cam kết, còn nặng hình thức và theo phong trào. Cần phát huy hơn nữa kết quả của Diễn đàn hợp tác Kinh tế ĐBSCL đã được Thủ tướng Chính phủ Quyết định thành lập.
___________________________________________________________________________
[1] Vụ trưởng Vụ Kinh tế - Xã hội, BCĐ Tây Nam Bộ, Ủy viên BCĐ Diễn đàn Hợp tác kinh tế ĐBSCL[2] Công văn số 740/VPCP-KTN ngày 01-02-2010 về Chương trình liên kết vùng ĐBSCL[3] Địa lý các vùng kinh tế Việt Nam, NXb Giáo dục, 2009. [4] Tham luận Hội thảo Triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn, Cần Thơ 12-2010[5] Bộ KH&ĐT trình TTg CP đề án đặc thù thu hút đầu tư vào vùng ĐBSCL.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Định Dương Quốc Định  sinh năm 1967,

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em trong giấc mơ …”.   Nhớ Cần Thơ phố thời bao