Ảnh: hiepcantho |
Tham luận Hội thảo khoa học “Lúa gạo Việt Nam – xuất khẩu và hội nhập” trong khuôn khổ Festival Lúa gạo Việt Nam lần thứ I, Vị Thanh, ngày 29-11-2009
Trần Hữu Hiệp [1]
I. Đặt vấn đề:
ĐBSCL có diện tích đất tự nhiên khoảng 3,96 triệu ha, chiếm khoảng 12% diện tích, 22% dân số và đóng góp khoảng 27% vào GDP quốc gia. Hàng năm, vùng này sản xuất hơn 50% sản lượng lương thực và cung cấp 92% lượng gạo xuất khẩu cho cả nước. Vì thế, sản xuất lúa của vùng ĐBSCL quyết định an ninh lương thực quốc gia, đóng góp quan trọng cho an ninh lương thực thế giới, tăng giá trị xuất khẩu nông sản, phát triển dịch vụ nông nghiệp và nông thôn, nâng cao đời sống nông dân và tạo cơ hội việc làm ở nông thôn.
Theo dự báo mới nhất của Tổ chức dự báo cung – cầu (USDA), sản lượng gạo thế giới niên vụ 2009/10 đạt 433,5 triệu tấn, giảm 2,56% so với niên vụ 2008/09. Trung Quốc, Ấn Độ, Inđo, Bangladesh...vẫn là những nước có sản lượng lớn nhất nhưng chỉ đủ phục vụ nhu cầu trong nước. Mức tiêu thụ gạo thế giới ước 438,1 triệu tấn, tăng 0,4% so với niên vụ trước, tổng lượng gạo thiếu hụt so với nhu cầu khoảng 4,6 triệu tấn. Giao thương gạo thế giới niên vụ 2009/10 ước đạt 29,6 triệu tấn, tăng 6,35% so với niên trước. Trong đó, nước xuất khẩu gạo hàng đầu Thái Lan được dự báo tăng mạnh 17,65% so với dự báo trước, trái lại dự báo xuất khẩu ấn Độ giảm mạnh 62,5% so với dự báo trước đó của USDA.
Hiệp hội lương thực Việt Nam cho biết, tính đến 10/11/2009, cả nước xuất khẩu 5,425 triệu tấn gạo, trị giá 2,149 tỷ USD. Trước đó, Trung tâm thông tin Công Thương nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết: 8 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo cả nước đã tăng 42,7% về lượng, nhưng giảm 1,68% về trị giá so với cùng kỳ 2008. Nhiều năm liền, nước ta luôn giữ vững vị trí cường quốc xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới. Nhưng cho đến nay, Việt Nam nói chung và ĐBSCL – nơi được mệnh danh “bát cơm châu Á” vẫn chưa có được thương hiệu cho hạt gạo. Xây dựng và triển khai một Chiến lược thương hiệu cho hạt gạo đồng bằng trở thành đòi hỏi bức bách.
II. Thực trạng và kiến nghị:
Việc chưa có một thương hiệu gạo xuất khẩu mạnh của quốc gia, của vùng ĐBSCL trên thị trường lúa gạo quốc tế là một thực tế đã được nhận diện. Song, cần đặt nó trong một chuỗi giá trị của quá trình sản xuất hàng hóa, xác định trách nhiệm – lợi ích của từng “chủ thể” tham gia, những “công đoạn” quyết định, “điểm nút” đột phá để chọn lựa giải pháp, thứ tự ưu tiên và tiến hành đồng bộ để xây dựng chiến lược thương hiệu là vấn đề có tầm quan trọng.
Bắt đầu tư đâu?
Việc xây dựng thương hiệu hạt gạo ĐBSCL nên bắt đầu từ doanh nghiệp. Theo GS.TS. Võ Tòng Xuân: “Cần phải xây dựng thương hiệu để khẳng định giá trị hạt gạo Việt Nam. Và phải bắt đầu từ doanh nghiệp, sự hợp tác của doanh nghiệp và nông dân cùng với nghiên cứu của các nhà khoa học sẽ tạo ra vùng sản xuất rộng lớn”. Doanh nghiệp là “mắc xích” cuối cùng trong chuỗi đầu ra của xuất khẩu gạo, hơn ai hết, họ “biết mình, biết ta” trong cuộc cạnh tranh trên trường quốc tế - nơi mà các cường quốc xuất khẩu gạo như Thái Lan, Ấn Độ “tung hoành” và đã có những bước đi trước ta trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia xuất khẩu gạo “chuyên nghiệp”. Trong khi ta vẫn đang “lẩn quẩn” tranh cãi với vai trò, cơ chế điều hành xuất khẩu gạo giữa Hiệp hội (đại diện hay chưa xứng đáng là đại diện cộng đồng doanh nghiệp) – Bộ chuyên ngành - và Doanh nghiệp. Những “hục hặc”, “choảng nhau” giữa các thành viên giữ vai trò quyết định trong chuỗi sản xuất loại hàng hoá chiến lược này đã làm cho hạt gạo đồng bằng vừa chịu sự “cạnh tranh sân nhà”, vừa “gồng mình” trước sự lấn lướt của các “đối thủ”. Trước khi liên kết “Bốn nhà” – Nhà nông, nhà khoa học, nhà nước và doanh nghiệp - thì bản thân các doanh nghiệp phải liên kết dọc - ngang chặt chẽ và chuyên nghiệp. Theo các chuyên gia, năng lực cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam còn thua kém xa giá trị thương phẩm của gạo Thái vốn đã có thương hiệu từ lâu, mức giá trung bình thường thấp hơn từ 100 - 200 USD/tấn. Giá xuất khẩu gạo của VN trong những tháng gần đây, loại 5% tấm 380-400 USD/tấn và 25% tấm 325-350 USD/tấn so với gạo cùng loại của Thái Lan là 510 và 426 USD/tấn, thấp hơn bình quân từ 80 -120 USD/tấn. Dự báo năm 2009, Việt Nam xuất khẩu đạt 7 triệu tấn gạo, đồng nghĩa với việc phải thua thiệt 700 triệu USD về giá, tương đương 2 triệu tấn gạo. Bài toán về giá cả và thương hiệu hạt gạo Việt Nam cần được doanh nghiệp, nhà nông, nhà khoa học và nhà nước chung sức giải đáp.
Nhà khoa học – “chất xám” của thương hiệu gạo
Thương hiệu hạt gạo ĐBSCL gắn với tên doanh nghiệp, nhưng lại là “chất xám” của nhà khoa học và “mồ hôi” của người nông dân. Để có thương hiệu gạo, phải giải quyết đồng bộ từ khâu giống, canh tác, công nghệ sau thu hoạch, tồn trữ và phải tăng cường liên kết “Bốn nhà” thực sự hiệu quả. Theo PGS,TS. Phạm Văn Dư, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Hệ thống sản xuất giống, công tác quản lý chất lượng giống lúa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với vị trí của vùng”. Hiện toàn vùng đang sử dụng trên 100 giống lúa, rất khó đáp ứng đồng bộ về chủng loại và phẩm cấp của hàng xuất khẩu qui mô lớn. Trong khi đó, theo nghiên cứu của Viện lúa ĐBSCL và Trường Đại học Cần Thơ, hệ thống nhà nước mới đáp ứng 20% giống xác nhận, nông dân trong vùng phải sử dụng 80% giống trôi nổi khác. Các nhà khoa học của Viện Lúa ĐBSCL, Trường Đại học Cần Thơ phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, các tỉnh, thành trong vùng xây dựng để triển khai Dự án Phát triển sản xuất và tiêu thụ lúa gạo vùng ĐBSCL thông qua liên kết vùng và sự tham gia “4 nhà”. Với tổng mức kinh phí khiêm tốn 140 tỉ đồng để đầu tư đánh giá và xác định nguồn gen cho 500 giống lúa địa phương, đẩy mạnh xã hội hóa công tác giống, đảm bảo sử dụng giống xác nhận từ 40-50% diện tích trồng lúa xuất khẩu gắn với xây dựng 5-10 thương hiệu lúa gạo chất lượng cao cho ĐBSCL, ... Nhưng “chất xám” của nhà khoa học muốn tham gia vào “quá trình sản xuất lúa”, “đánh bóng thương hiệu hạt gạo đồng bằng” phải thông qua người nông dân – những người quyết định đầu vào của quá trình đó.
Nhà nông đã và đang làm gì?
Theo TS. Nguyễn Văn Sánh, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL, Trường ĐH Cần Thơ, thì mặt bằng về trình độ sản xuất lúa của nông dân ĐBSCL nhìn chung còn thấp, canh tác chủ yếu theo kinh nghiệm, thiếu kiến thức về chuyên môn, việc sản xuất lúa theo tiêu chuẩn GAP gần như chưa được áp dụng. Vì vậy, hạt lúa đồng bằng còn mang nặng sức ì “4 không” (không đúng chất, không đủ lượng, không đúng thời điểm và không đạt giá cao). Trong khi đó, nông dân phải đối mặt với nỗi lo và gánh nặng chi phí “Bốn nhà” là “Nhà mình” – chi tiêu gia đình ăn uống, chữa bệnh, học hành của con, chiếm khoảng 21%; “Nhà vật tư” - giá cả ngày một tăng, vay vốn nặng lãi mua vật tư hoặc mua chịu, lãi suất cao, chiếm khoảng 65% “Nhà băng” , nhiều khó khăn như thiếu vốn sản xuất (giá vật tư cao, ứng vật tư trước, trả lãi suất cao); chi tiêu gia đình ngày càng cao (sinh hoạt, chữa bệnh, học hành, đám tiệc, giỗ tết, ...); thu nhập thấp do giá lúa hàng hoá thời điểm bán bán thấp, thị trường bấp bênh. Hiện trạng sản xuất lúa ở ĐBSCL chủ yếu là nông hộ nhỏ lẻ, manh mún, nên việc chọn giống lúa canh tác phụ thuộc rất lớn vào “sở thích” của nông dân hoặc chịu sự “tổn thương” của thị trường lúa gạo. Phần lớn nông dân sử dụng giống IR 50504 và tình trạng lúa tồn đọng trong năm 2008 là một thí dụ. Cần phải tổ chức tại sản xuất theo hướng cánh đồng một giống gắn với tập huấn nâng cao kỹ năng ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến và thực hiện các quy trình canh tác theo nhóm giống, tiểu vùng sinh thái; quy trình GAP; kỹ thuật sau thu hoạch; quản lý kinh tế hộ; tiếp thị - quảng bá. Điều này sẽ tạo sự thuận lợi cho việc gieo sạ đồng loạt, khống chế dịch bệnh và cho phép thực hiện qui trình cơ giới hóa. Giải quyết đồng bộ, tháo gỡ khó khăn cho người nông dân - khâu đầu tiên của qui trình sản xuất lúa hàng hoá, thì mới có thể xây dựng được thương hiệu gạo cho đồng bằng.
Tác động từ Nhà nước
Vai trò của Nhà nước có tác động to lớn trong liên kết “Bốn nhà” thông qua cơ chế chính sách chỉ đạo tổ chức sản xuất, điều tiết thị trường, điều hành xuất khẩu gạo. Những tác động tích cực của thị trường lúa gạo trong nước gần đây qua 2 đợt thu mua với 900 tấn gạo dự trữ theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ là một thí dụ bên cạnh “học phí” cho bài học điều hành xuất khẩu gạo của Chính phủ trong năm 2008. Thực tế cho thấy, để giải quyết tốt khâu giống, sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo trong hành trình xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc điều hoà lợi ích. Chúng ta nên suy ngẫm từ người bạn láng giềng Thái Lan, trong khi giá gạo thị trường thế giới đang lên, Chính phủ Thái vẫn thông báo tái áp dụng chương trình can thiệp giá gạo trong tháng 9/09, nhằm mua thêm 900 nghìn tấn thóc đưa vào kho dự trữ để tiếp tục hỗ trợ người nông dân. Hiện gạo trữ kho của Thái đã lên tới 7 triệu tấn.
Các năm qua nhiều địa phương trong vùng như Cần Thơ, An Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang... dành hàng tỉ đồng hỗ trợ giống lúa, cơ giới hoá và công nghệ thu hoạch. Tỉnh An Giang cũng đang triển khai đầu tư 3,4 tỉ đồng trong 3 năm (2008 - 2011) để thực hiện chương trình xây dựng chất lượng thương hiệu gạo xuất khẩu theo tiêu chuẩn Global GAP (thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu) trên 3 dòng lúa gạo đặc sản của địa phương là Nàng Nhen Bảy Núi, gạo thơm Châu Phú và nếp Phú Tân. Nhưng để tiếp cận thị trường thế giới, xây dựng những thương hiệu gạo mạnh, cần tăng tính liên kết vùng. Vùng lúa chất lượng cao với quy mô khoảng 200.000 ha ở 7/13 tỉnh, thành ĐBSCL cần được đầu tư xây dựng tốt là những bước đi đầu tiên trong hành trình xây dựng thương hiệu gạo đồng bằng.
Cần đưa thương hiệu gạo ĐBSCL vào Chương trình thương hiệu quốc gia của Chính phủ để quảng bá hình ảnh đất nước. Một nước vốn có truyền thống và thế mạnh sản xuất lúa, xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, một quốc gia có nền “văn minh lúa nước”, không lý do gì hạt gạo đồng bằng, gạo Việt lại chưa được đặt ở vị trí trang trọng của một thương hiệu mang tầm quốc tế. Việc tổ chức Festival lúa gạo Việt Nam lần thứ I tại Hậu Giang – cái rốn của vùng lúa gạo lâu đời Tây Sông Hậu với lịch sử hơn 100 năm của con đường lúa gạo Việt Nam – kênh xáng Xà No – đi vào lịch sử vùng đất mới của thời “kinh tế lúa nước” – nơi hạt gạo Việt bước ra khỏi nâm cơm truyền thống của người Việt để trở thành hàng hoá xuất khẩu. Nó xứng đáng mang một thương hiệu quốc gia đại diện cho một nước với văn hoá truyền thống và kinh tế hiện đại ./.
________________________________________________________________________________[1] Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Tham luận tại Hội thảo quốc tế “Lúa gạo Việt Nam – Xuất khẩu và hội nhập”, ngày 29-11-2009 tại Festival Lúa gạo Việt nam lần thứ nhất, TX. Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
Trần Hữu Hiệp [1]
I. Đặt vấn đề:
ĐBSCL có diện tích đất tự nhiên khoảng 3,96 triệu ha, chiếm khoảng 12% diện tích, 22% dân số và đóng góp khoảng 27% vào GDP quốc gia. Hàng năm, vùng này sản xuất hơn 50% sản lượng lương thực và cung cấp 92% lượng gạo xuất khẩu cho cả nước. Vì thế, sản xuất lúa của vùng ĐBSCL quyết định an ninh lương thực quốc gia, đóng góp quan trọng cho an ninh lương thực thế giới, tăng giá trị xuất khẩu nông sản, phát triển dịch vụ nông nghiệp và nông thôn, nâng cao đời sống nông dân và tạo cơ hội việc làm ở nông thôn.
Theo dự báo mới nhất của Tổ chức dự báo cung – cầu (USDA), sản lượng gạo thế giới niên vụ 2009/10 đạt 433,5 triệu tấn, giảm 2,56% so với niên vụ 2008/09. Trung Quốc, Ấn Độ, Inđo, Bangladesh...vẫn là những nước có sản lượng lớn nhất nhưng chỉ đủ phục vụ nhu cầu trong nước. Mức tiêu thụ gạo thế giới ước 438,1 triệu tấn, tăng 0,4% so với niên vụ trước, tổng lượng gạo thiếu hụt so với nhu cầu khoảng 4,6 triệu tấn. Giao thương gạo thế giới niên vụ 2009/10 ước đạt 29,6 triệu tấn, tăng 6,35% so với niên trước. Trong đó, nước xuất khẩu gạo hàng đầu Thái Lan được dự báo tăng mạnh 17,65% so với dự báo trước, trái lại dự báo xuất khẩu ấn Độ giảm mạnh 62,5% so với dự báo trước đó của USDA.
Hiệp hội lương thực Việt Nam cho biết, tính đến 10/11/2009, cả nước xuất khẩu 5,425 triệu tấn gạo, trị giá 2,149 tỷ USD. Trước đó, Trung tâm thông tin Công Thương nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết: 8 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo cả nước đã tăng 42,7% về lượng, nhưng giảm 1,68% về trị giá so với cùng kỳ 2008. Nhiều năm liền, nước ta luôn giữ vững vị trí cường quốc xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới. Nhưng cho đến nay, Việt Nam nói chung và ĐBSCL – nơi được mệnh danh “bát cơm châu Á” vẫn chưa có được thương hiệu cho hạt gạo. Xây dựng và triển khai một Chiến lược thương hiệu cho hạt gạo đồng bằng trở thành đòi hỏi bức bách.
II. Thực trạng và kiến nghị:
Việc chưa có một thương hiệu gạo xuất khẩu mạnh của quốc gia, của vùng ĐBSCL trên thị trường lúa gạo quốc tế là một thực tế đã được nhận diện. Song, cần đặt nó trong một chuỗi giá trị của quá trình sản xuất hàng hóa, xác định trách nhiệm – lợi ích của từng “chủ thể” tham gia, những “công đoạn” quyết định, “điểm nút” đột phá để chọn lựa giải pháp, thứ tự ưu tiên và tiến hành đồng bộ để xây dựng chiến lược thương hiệu là vấn đề có tầm quan trọng.
Bắt đầu tư đâu?
Việc xây dựng thương hiệu hạt gạo ĐBSCL nên bắt đầu từ doanh nghiệp. Theo GS.TS. Võ Tòng Xuân: “Cần phải xây dựng thương hiệu để khẳng định giá trị hạt gạo Việt Nam. Và phải bắt đầu từ doanh nghiệp, sự hợp tác của doanh nghiệp và nông dân cùng với nghiên cứu của các nhà khoa học sẽ tạo ra vùng sản xuất rộng lớn”. Doanh nghiệp là “mắc xích” cuối cùng trong chuỗi đầu ra của xuất khẩu gạo, hơn ai hết, họ “biết mình, biết ta” trong cuộc cạnh tranh trên trường quốc tế - nơi mà các cường quốc xuất khẩu gạo như Thái Lan, Ấn Độ “tung hoành” và đã có những bước đi trước ta trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia xuất khẩu gạo “chuyên nghiệp”. Trong khi ta vẫn đang “lẩn quẩn” tranh cãi với vai trò, cơ chế điều hành xuất khẩu gạo giữa Hiệp hội (đại diện hay chưa xứng đáng là đại diện cộng đồng doanh nghiệp) – Bộ chuyên ngành - và Doanh nghiệp. Những “hục hặc”, “choảng nhau” giữa các thành viên giữ vai trò quyết định trong chuỗi sản xuất loại hàng hoá chiến lược này đã làm cho hạt gạo đồng bằng vừa chịu sự “cạnh tranh sân nhà”, vừa “gồng mình” trước sự lấn lướt của các “đối thủ”. Trước khi liên kết “Bốn nhà” – Nhà nông, nhà khoa học, nhà nước và doanh nghiệp - thì bản thân các doanh nghiệp phải liên kết dọc - ngang chặt chẽ và chuyên nghiệp. Theo các chuyên gia, năng lực cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam còn thua kém xa giá trị thương phẩm của gạo Thái vốn đã có thương hiệu từ lâu, mức giá trung bình thường thấp hơn từ 100 - 200 USD/tấn. Giá xuất khẩu gạo của VN trong những tháng gần đây, loại 5% tấm 380-400 USD/tấn và 25% tấm 325-350 USD/tấn so với gạo cùng loại của Thái Lan là 510 và 426 USD/tấn, thấp hơn bình quân từ 80 -120 USD/tấn. Dự báo năm 2009, Việt Nam xuất khẩu đạt 7 triệu tấn gạo, đồng nghĩa với việc phải thua thiệt 700 triệu USD về giá, tương đương 2 triệu tấn gạo. Bài toán về giá cả và thương hiệu hạt gạo Việt Nam cần được doanh nghiệp, nhà nông, nhà khoa học và nhà nước chung sức giải đáp.
Nhà khoa học – “chất xám” của thương hiệu gạo
Thương hiệu hạt gạo ĐBSCL gắn với tên doanh nghiệp, nhưng lại là “chất xám” của nhà khoa học và “mồ hôi” của người nông dân. Để có thương hiệu gạo, phải giải quyết đồng bộ từ khâu giống, canh tác, công nghệ sau thu hoạch, tồn trữ và phải tăng cường liên kết “Bốn nhà” thực sự hiệu quả. Theo PGS,TS. Phạm Văn Dư, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Hệ thống sản xuất giống, công tác quản lý chất lượng giống lúa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với vị trí của vùng”. Hiện toàn vùng đang sử dụng trên 100 giống lúa, rất khó đáp ứng đồng bộ về chủng loại và phẩm cấp của hàng xuất khẩu qui mô lớn. Trong khi đó, theo nghiên cứu của Viện lúa ĐBSCL và Trường Đại học Cần Thơ, hệ thống nhà nước mới đáp ứng 20% giống xác nhận, nông dân trong vùng phải sử dụng 80% giống trôi nổi khác. Các nhà khoa học của Viện Lúa ĐBSCL, Trường Đại học Cần Thơ phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, các tỉnh, thành trong vùng xây dựng để triển khai Dự án Phát triển sản xuất và tiêu thụ lúa gạo vùng ĐBSCL thông qua liên kết vùng và sự tham gia “4 nhà”. Với tổng mức kinh phí khiêm tốn 140 tỉ đồng để đầu tư đánh giá và xác định nguồn gen cho 500 giống lúa địa phương, đẩy mạnh xã hội hóa công tác giống, đảm bảo sử dụng giống xác nhận từ 40-50% diện tích trồng lúa xuất khẩu gắn với xây dựng 5-10 thương hiệu lúa gạo chất lượng cao cho ĐBSCL, ... Nhưng “chất xám” của nhà khoa học muốn tham gia vào “quá trình sản xuất lúa”, “đánh bóng thương hiệu hạt gạo đồng bằng” phải thông qua người nông dân – những người quyết định đầu vào của quá trình đó.
Nhà nông đã và đang làm gì?
Theo TS. Nguyễn Văn Sánh, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL, Trường ĐH Cần Thơ, thì mặt bằng về trình độ sản xuất lúa của nông dân ĐBSCL nhìn chung còn thấp, canh tác chủ yếu theo kinh nghiệm, thiếu kiến thức về chuyên môn, việc sản xuất lúa theo tiêu chuẩn GAP gần như chưa được áp dụng. Vì vậy, hạt lúa đồng bằng còn mang nặng sức ì “4 không” (không đúng chất, không đủ lượng, không đúng thời điểm và không đạt giá cao). Trong khi đó, nông dân phải đối mặt với nỗi lo và gánh nặng chi phí “Bốn nhà” là “Nhà mình” – chi tiêu gia đình ăn uống, chữa bệnh, học hành của con, chiếm khoảng 21%; “Nhà vật tư” - giá cả ngày một tăng, vay vốn nặng lãi mua vật tư hoặc mua chịu, lãi suất cao, chiếm khoảng 65% “Nhà băng” , nhiều khó khăn như thiếu vốn sản xuất (giá vật tư cao, ứng vật tư trước, trả lãi suất cao); chi tiêu gia đình ngày càng cao (sinh hoạt, chữa bệnh, học hành, đám tiệc, giỗ tết, ...); thu nhập thấp do giá lúa hàng hoá thời điểm bán bán thấp, thị trường bấp bênh. Hiện trạng sản xuất lúa ở ĐBSCL chủ yếu là nông hộ nhỏ lẻ, manh mún, nên việc chọn giống lúa canh tác phụ thuộc rất lớn vào “sở thích” của nông dân hoặc chịu sự “tổn thương” của thị trường lúa gạo. Phần lớn nông dân sử dụng giống IR 50504 và tình trạng lúa tồn đọng trong năm 2008 là một thí dụ. Cần phải tổ chức tại sản xuất theo hướng cánh đồng một giống gắn với tập huấn nâng cao kỹ năng ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến và thực hiện các quy trình canh tác theo nhóm giống, tiểu vùng sinh thái; quy trình GAP; kỹ thuật sau thu hoạch; quản lý kinh tế hộ; tiếp thị - quảng bá. Điều này sẽ tạo sự thuận lợi cho việc gieo sạ đồng loạt, khống chế dịch bệnh và cho phép thực hiện qui trình cơ giới hóa. Giải quyết đồng bộ, tháo gỡ khó khăn cho người nông dân - khâu đầu tiên của qui trình sản xuất lúa hàng hoá, thì mới có thể xây dựng được thương hiệu gạo cho đồng bằng.
Tác động từ Nhà nước
Vai trò của Nhà nước có tác động to lớn trong liên kết “Bốn nhà” thông qua cơ chế chính sách chỉ đạo tổ chức sản xuất, điều tiết thị trường, điều hành xuất khẩu gạo. Những tác động tích cực của thị trường lúa gạo trong nước gần đây qua 2 đợt thu mua với 900 tấn gạo dự trữ theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ là một thí dụ bên cạnh “học phí” cho bài học điều hành xuất khẩu gạo của Chính phủ trong năm 2008. Thực tế cho thấy, để giải quyết tốt khâu giống, sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo trong hành trình xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc điều hoà lợi ích. Chúng ta nên suy ngẫm từ người bạn láng giềng Thái Lan, trong khi giá gạo thị trường thế giới đang lên, Chính phủ Thái vẫn thông báo tái áp dụng chương trình can thiệp giá gạo trong tháng 9/09, nhằm mua thêm 900 nghìn tấn thóc đưa vào kho dự trữ để tiếp tục hỗ trợ người nông dân. Hiện gạo trữ kho của Thái đã lên tới 7 triệu tấn.
Các năm qua nhiều địa phương trong vùng như Cần Thơ, An Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang... dành hàng tỉ đồng hỗ trợ giống lúa, cơ giới hoá và công nghệ thu hoạch. Tỉnh An Giang cũng đang triển khai đầu tư 3,4 tỉ đồng trong 3 năm (2008 - 2011) để thực hiện chương trình xây dựng chất lượng thương hiệu gạo xuất khẩu theo tiêu chuẩn Global GAP (thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu) trên 3 dòng lúa gạo đặc sản của địa phương là Nàng Nhen Bảy Núi, gạo thơm Châu Phú và nếp Phú Tân. Nhưng để tiếp cận thị trường thế giới, xây dựng những thương hiệu gạo mạnh, cần tăng tính liên kết vùng. Vùng lúa chất lượng cao với quy mô khoảng 200.000 ha ở 7/13 tỉnh, thành ĐBSCL cần được đầu tư xây dựng tốt là những bước đi đầu tiên trong hành trình xây dựng thương hiệu gạo đồng bằng.
Cần đưa thương hiệu gạo ĐBSCL vào Chương trình thương hiệu quốc gia của Chính phủ để quảng bá hình ảnh đất nước. Một nước vốn có truyền thống và thế mạnh sản xuất lúa, xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, một quốc gia có nền “văn minh lúa nước”, không lý do gì hạt gạo đồng bằng, gạo Việt lại chưa được đặt ở vị trí trang trọng của một thương hiệu mang tầm quốc tế. Việc tổ chức Festival lúa gạo Việt Nam lần thứ I tại Hậu Giang – cái rốn của vùng lúa gạo lâu đời Tây Sông Hậu với lịch sử hơn 100 năm của con đường lúa gạo Việt Nam – kênh xáng Xà No – đi vào lịch sử vùng đất mới của thời “kinh tế lúa nước” – nơi hạt gạo Việt bước ra khỏi nâm cơm truyền thống của người Việt để trở thành hàng hoá xuất khẩu. Nó xứng đáng mang một thương hiệu quốc gia đại diện cho một nước với văn hoá truyền thống và kinh tế hiện đại ./.
________________________________________________________________________________[1] Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Tham luận tại Hội thảo quốc tế “Lúa gạo Việt Nam – Xuất khẩu và hội nhập”, ngày 29-11-2009 tại Festival Lúa gạo Việt nam lần thứ nhất, TX. Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
Nhận xét
Đăng nhận xét